Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

GIA PHẢ HỌ PHAN ĐÌNH (Phần 3)


ĐÔNG THÁI PHAN TỘC TIỀN PHẢ LƯỢC BIÊN
Do tú tài Phan Hải Châu đời thứ mười ghi lại vào năm 1907 (Trích)
Bản dịch: Lê Văn Duyệt (tự Tân Việt) dịch tháng 05/1997

ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT

1.  Nhánh của tiên tổ Phan Duy Trinh (đời 10) sinh được 5 trai: con trai trưởng là Văn Liễu, kế tiếp làm cháu nối dõi của họ ta, đỗ Tú tài 2 khoa Đinh Mão, Quý Dậu đời Tự Đức, làm quan đến chức Tri huyện huyện Lệ Thuỷ, sau bị giáng chức; con trai thứ là Văn Thuyết; con trai thứ nữa là Văn Công; con trai thứ nữa là Văn Bách; con trai thứ nữa là Văn Dương. 5 con gái : con gái trưởng là Thị Phán, vợ chánh của Tú tài thay làm các công việc ở phủ Phan Bá Tuân con trai của Ty vụ Phan người xã Việt An; con gái thứ là Thị Khoản, vợ chánh của Phan Bộ con của Tú tài Phan Toán người xã Việt An; con gái thứ nữa là Thị Đán, vợ chánh của Bùi Thức Thường người xã An Hội; con gái thứ nữa là Thị Điều, vợ chánh của Phan Văn Tào con của Tú tài Phan Ôn người xã Việt An; con gái thứ nữa là Thị Triệu, vợ chánh của Vũ Văn Yết con của Giáo thụ Vũ Văn Niêm người xã Việt An.

2.1 Nhánh của  tiên tổ Phan Văn Huyễn (đời 10) sinh được 2 trai: con trai trưởng là Văn Bính; con trai thứ là Văn Quýnh. 2 gái: 1 là vợ chánh của Đinh Văn Huỳnh người xã Đông Khê, 1 là vợ chánh của Đào Bồi người xã Thịnh Quả.
2.2. Nhánh của tiên tổ Phan Văn Cơ (đời 10) sinh được 1 trai là Khắc Cần.
2.3. Nhánh của tiên tổ Phan Văn An (đời 10) sinh được 1 trai là Phan Duy.
3.1 Nhánh của tiên tổ Phan Văn Đàm (đời 10) sinh được 5 trai: con trai trưởng là Văn Trạch làm Cửu phẩm Lại mục; con trai thứ là Văn Doanh; con trai thứ nữa là Văn Châu; con trai thứ nữa là Văn Biện; con trai thứ nữa là Văn Hiệp. 5 gái: 1 là vợ chánh của Bùi Cúc con của Cử nhân Bùi Trí người xã An Hội; 1 là vợ chánh của ấm sinh Lê Cẩn con của Quản đạo Lê Tự người xã Trung Lễ; 1 là vợ chánh của Cai Tổng Lương Văn người xã Cam Mỹ; 1 là vợ chánh của Bát phẩm Nguyễn Thưởng; 1 là vợ chánh của Cai tổng Lê Tảo người xã Xuân Trì.
3.2 Nhánh của tiên tổ Phan Văn Nhu (đời 10) sinh được 2 trai: con trai trưởng là Văn Tĩnh, con trai thứ là Văn (?). 3 gái: 1 là vợ chánh của Nguyễn Trinh người xã Bái Đức; 1 là vợ chánh của (?) người huyện Nam Đàn ; 1 là vợ chánh của (?) người huyện Nam Đàn.
3.3 Nhánh của tiên tổ Phan Văn Bân (đời 10) sinh được 4 trai: con trai trưởng là Văn Liên; con trai thứ là Phan Đại hiện làm quan Tri phủ phủ Vĩnh Tường; con trai thứ nữa là Phan Văn (?) ; con trai thứ nữa là Phan Văn (?) . 1 gái là vợ chánh của ông Bát Quế người Hà Nội.
4.1 Nhánh của tiên tổ Phan Văn Dự (đời 10) sinh được 3 trai: con trai trưởng là Văn Du, đỗ Cử nhân khoa Bính Tý đời Tự Đức, hiện làm quan Hàn lâm viện Thị giảng; con trai thứ là Văn Hành, ấm tử; con trai thứ nữa là Văn Kỳ, ấm sinh theo tỉnh. 4 gái: 1 là vợ chánh của Trần Hữu Dụng người xã An Hồ; 1 là vợ chánh của Cử nhân Huấn đạo Phan Trọng Nghị con của Tổng đốc Hải An Phan hầu người cùng ấp; 1 là vợ chánh của ấm sinh Đinh Nho Bồi con của Tuần phủ Hương Sơn Đinh Nho Quang; 1 là vợ chánh của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Mai người huyện Nghi Xuân.
4.2 Nhánh của tiên tổ Phan Hải Châu (đời 10) sinh được 3 trai: con trai trưởng là Văn Hoàn, đỗ Tú tài khoa (?); con trai thứ là Văn Hoàng; con trai thứ nữa là (?). 2 gái: 1 là vợ chánh của Cử nhân Mai Văn Dương con của Cử nhân Mai Văn Lệnh người xã An Nội; 1 là vợ chánh của (?) người xã Việt An.
4.3 Nhánh của tiên tổ Phan Văn Khuê (đời 10) hiện sinh được 1 gái.
4.4 Nhánh của tiên tổ Phan Văn Chương (đời 10) hiện sinh được 2 trai: con trai trưởng là Văn Cự; con trai thứ là Văn (?) và 1 gái.
5.1 Nhánh của tiên tổ Phan Văn Đình Thông (đời 10) sinh được 3 trai: con trai trưởng là Đình Toại; con trai thứ là Đình Tập; con trai thứ nữa là Đình Bôn. 3 gái: 1 là vợ chánh của Lê Năm con của Bố chánh Lê Khanh người xã Trung Lễ; 1 là vợ chánh của Thái Khắc (?) con của Tri phủ Vạn Phúc Thái Khắc Tuy; 1 là vợ chánh của Vũ Văn Chấn người thôn Trinh Nguyên.
5.2 Nhánh của tiên tổ Phan Đình Thuật (đời 10) sinh được 2 trai: con trai trưởng là Đình Phương ; con trai thứ là Đình Căn. 1 gái là vợ chánh của Phạm Dự con của Chủ sự Phạm ích người cùng ấp.
5.3 Nhánh của tiên tổ Phan Đình Tuân (đời 10) sinh được 1 trai là Đình Nghinh, ấm tôn.
5.4 Nhánh của tiên tổ Phan Đình Phùng (đời 10) sinh được 4 trai: con trai trưởng là Đình Tâm ; con trai thứ là Đình Quách(?) ; con trai thứ nữa là Đình Cừ; con trai thứ nữa là Đình Cam. 2 gái: 1 là vợ chánh của Tú tài Hoàng Xuân Trích con của án sát Hoàng Xuân Sinh người xã An Hồ; 1 là vợ chánh của Phan (?) con của Tú tài Phan Toại người xã Tùng ảnh.
5.5 Nhánh của tiên tổ Phan Đình Vận (đời 10) sinh được 1 trai là Đình Đường; 2 gái: 1 là vợ chánh của Thiếu bảo lãnh chức Tổng đốc Hoàng Trọng Phu con của Diên Mậu Quận công Hoàng Cao Khải ; 1 là vợ chánh của Tú tài Lê Văn Thành con của Thị giảng Lê Chí người xã Việt An.
5.6 Nhánh của tiên tổ Phan Đình Đệ (đời 10) sinh được 1 trai là Đình Hạnh.
5.7 Nhánh của tiên tổ Phan Đình Duật (đời 10) sinh được 1 trai là Đình Kha, 1 gái là vợ chánh của Bùi (?) người xã An Hội.
Đấy đều là hàng chắt của ông Tặng ta, và đối với đại tôn thì là thế hệ thứ 11 vậy. Đến nay hàng chút đã hơn 80 người, hàng chít cũng sắp 30 người, nhưng trẻ ở tuổi mọc răng đang dần dần nhiều lên, số mới sinh hoặc số đã lớn đều hãy còn chưa cố định, chưa dám ghi vào sổ, hãy đợi sau này sẽ theo thứ tự mà ghi tiếp vào, cho đến thế hệ thứ 100, thế hệ thứ 1000. Thế nên có thể biết sơ lược về thế phả dòng họ Phan ta. Ô hô! Ông Tặng ta qua đời vào năm Bính Tí đời Gia Long (1816), bấy giờ các con đều chưa trưởng thành, tính đến nay chưa tới 100 năm, truyền nhau mới đến 4 đời, mà số con cháu chắt chút cả trai cả gái đã hơn 200 người. Về khoa cử thì 1 người đứng đầu cuộc thi Đình, 3 người đỗ trong cuộc thi Hội, 4 người được cất nhắc là Hương tiến, 7 người được nhận sách vở của nhà trường, và có 5 người là ông cháu, chú cháu, anh em đỗ cùng khoa. Về làm quan thì có 2 người làm quan đến Nhị phẩm1 người làm quan đến Tứ phẩm, 3 người làm quan đến Ngũ phẩm, 6 người làm quan đến Lục, Thất phẩm, và có 3 người là cha con, chú cháu, anh em làm quan cùng triều. Đàn ông hiển danh vì lòng trung cũng có, phụ nữ hiển danh vì tiết tháo cũng có. Có người lúc còn sống thì được nhận cáo văn phong cho chức tước, khi đã chết thì được khen ngợi tặng thưởng, và con lại tiếp nối những thành quả tốt đẹp của cha. Có người thọ 70 tuổi, thọ 80 tuổi mà anh em vẫn làm bạn với nhau. ở đây tụ tập mọi chuyện kỳ ngộ hiếm có của người đời, cái phúc thuần nhất đầy đủ nhóm họp cả vào một nhà. Còn đối với sự quý hiển của con rể, sự thành công của cháu ngoại thì khó mà kể hết ra được. Huống hồ nay con của cháu nối dõi Liễu là Văn Thưởng đã đỗ Tú tài khoa Bính Ngọ, như thế là ân trạch của tổ tiên về việc học hành sách vở nhà Nho lại kịp đến với chút rồi. Cái phúc khánh của việc tích chứa điều thiện càng lâu thì càng sáng rõ, càng dẫn dắt thì càng dài xa. Cái phúc của nhà trong tương lai có lẽ có thể liệu biết được chăng? Thật là chỉ có ông Tặng ta được trời gây dựng lòng trung hậu, lượng đức sâu rộng, ông có thể vâng nhận gánh vác cái công việc của các bậc tổ tiên tích luỹ nên, ông có thể tiếp nối, bày tỏ về tấm lòng trọng đạo của các kỵ các cụ ta, ông có thể làm sáng rộng cái ân đức về sách vở của hai quý công Giám sinh. Làm cho đời trước được vinh quang, đời sau được dư đủ, đều do một mình ông. Có lẽ người mở mang cho kẻ đời sau của ta không bị thiếu sót, thì trên có mẹ hiền họ Nguyễn, trong nhà có vợ hiền họ Mai, tấm lòng nhân từ bác ái, tiết tháo chính trực chuyên cần, lại được nhà Nho trợ giúp bằng cái phong tục thương yêu nhau, mà được dư dả ân đức về việc học hành, con cháu ta bèn được nhận cái phúc vô cùng này. Các bậc quân tử trước kia định xây dựng ngôi nhà thờ trăm đời không dời đổi cho ông Tặng và bà Thái nghi nhân, như thế thật là hợp với Lễ, chứ không phải là đầy đặn đối với người thân thích vậy. Than ôi! Hai Nhân công tổ tiên của ta, vì là con cháu của bậc trung thần, dời đến nước văn hiến, trải mấy trăm năm, truyền hơn mười đời, cái đức sáng ấy cũng xa rồi. Thế nhưng vào các thế hệ ở giữa, việc nối dõi lại nhiều khó khăn, mà việc thờ cúng một vị tôn quý thì như sợi chỉ dài mãi không dứt. Cụ Mật có 6 con trai, Lớn, Lễ có 4 con trai, mà chỉ có 3, 4 người là có nối truyền. Cụ Giám sinh Lệnh, cụ Giám sinh Quý thì đều keo lận trong việc nối dõi. Cụ Ni có 4 con trai, mà nối truyền lại ở đứa con thứ 3. Có cụ Mao mà có dòng nhánh taCụ ý có 5 con trai, mà nối nghiệp nhà lại ở đứa con út do bà vợ lẽ sinh ra, có bà họ Bùi mà có cuốn phả của họ ta. Sao mà gian nan vậy ! Truyền 4 đời đáng ra là 4 chi rồi. Truyền 5 đời đáng ra là 8 chi rồi. Truyền 6 đời đáng ra là 17 chi rồi. Thế mà truyền đã 7 đời mà mới thành có 3 chi. Truyền 7 đời đáng ra là có 13 nhánh rồi. Truyền 8 đời đáng ra là có 18(1) nhánh rồi. Thế mà truyền đã 9 đời mà mới thành có 8 nhánh. Sao mà chậm như vậy! Từ xa mà nói, đều do 2 cụ Nhân sinh ra, cùng dòng máu này, mà dòng nhánh của một họ chỉ riêng thịnh vượng ở một mình cụ tổ 4 đời là cụ Kỳ. Từ gần mà nói, đều từ cụ Kỳ sinh ra, cùng hưởng ân phúc này, thế mà đường khoa cử, làm quan của một họ, lại riêng chung đúc vào một nhà ông của ta là ông Tặng. Còn ngoài ra các nhánh khác, phần nhiều đều suy tàn, không có người nối truyền, tầm thường và không hiển đạt, như thế riêng là cớ làm sao? Ta nghĩ rằng : Tạo hoá chưa hết vô tâm, họ Cơ 5 lần chuyển dời, truyền đến Quý Lịch(3), mà dòng họ Cơ là thế hệ thứ 5 của họ Đại Hàn, có 12 người con trai mà họ Hàn vì thế hưng thịnh, đó là do trời không có lòng yêu ghét riêng tư vậy, tổ tiên không có phân biệt đối xử hậu hay bạc vậy. Sắp làm cho nó duỗi ra thì hãy làm cho nó co lại, làm cho nó gian nan lại thêm gian nan, để làm cho sự tích chứa của nó được đầy đặn. Muốn cho nó được phong phú thì trước tiên hãy làm cho nó bị keo lận, làm cho nó trì trệ lại thêm trì trệ, để làm cho sự dung nạp của nó được rộng lớn. Và cuối cùng thì giao phó cho nó, để cảm thụ được sự sâu xa của khí. Người trồng cây phúc đầy đặn, thì làm cho nó trọn vẹn rồi trao cho. Ví như cái cây, ban đầu lúc mới ra khỏi mặt đất thì rất bé nhỏ, rồi mà phát triển thành mầm, đồng loạt lớn lên, sương tuyết cuốn rụng lá của nó, gió mưa lại phụ theo mà lay động nó, cuối cùng là chung đúc sự tốt đẹp của nó vào một cái cành. Thế là cái sinh khí mà nó nhận được đã đầy đặn, cái gốc trồng của nó cũng đã sâu, đã ẩn chứa có cái thế vươn lên cao vút tới trời xanh. Đến lúc nó vượt lên mà nở hoa, cao vút mà dài ra, thẳng đứng mà là thân cây, chia ra mà là cành cây, đẹp đẽ mà là hoa, tụ lại mà thành quả, cùng lúc phô bày tất cả sự tươi tốt mà không gì có thể đè nén được. Khí chia thì tản ra, tụ lại thì bảo toàn, cái lý của nó cũng có cái đúng. Vả lại các bậc tiên tổ ta sống vào cuối đời Lê, lúc nhà nước còn suy vi. Cha ta chú bác ta sống đúng vào lúc nhà nước đang mở mang nền móng, và dòng họ ta mới to lớn. Từ trước đến nay, các dòng họ lớn làm quan nhiều đời, khi vui khi lo lúc hưng thịnh lúc đổi thay, thường cùng vận nước liên quan với nhau. Họ ta cố nhiên phải với nhà nước chung thuỷ cùng nhau, về lý cũng hoặc giả có như thế. Than ôi! Từ cụ Nhân trở về sau, nhà nhà truyền nhau sự trung hậu, tám đời chung một dòng máu, tích chứa sự ban phong gây trồng, mà có thể thành được cơ ngơi này. Qua trăm nghìn thử thách mà rồi mới trở nên to lớn, trải bao gian nan trắc trở mà rồi sau được hanh thông, cũng không phải là dễ đâu! Nay tám nhánh cùng một dòng họ ta, trai gái gồm hơn hai trăm người, trong đó số người đã ghi vào sổ sách là hơn một trăm, mà ban đầu cũng chỉ một người mà thôi. Khác cành cùng gốc, khác nhánh cùng nguồn, không ai không phải là con cháu của tổ ta vậy. Như thế nào để kéo dài thế đức của ta? Như thế nào để bảo vệ gia phong của ta? Đọc cuốn phả của ta, có thể không kinh động mà sợ hãi, cẩn thận mà suy ngẫm sao? Đọc phả chép về hai cụ Nhân mà suy nghĩ về sự gian nan trong việc mở mang. Đọc phả chép về các bậc tổ tiên mà suy nghĩ về cái xa rộng của sự an nhàn vui vẻ. Đọc phả chép về cụ Kỳ, cụ Tặng thì biết nguyên nhân khiến cho sự giáo dục của gia đình được đúng đắn, phải biết lấy Thi, Thư để dạy dỗ cho con cháu mình. Đọc phả chép về bà họ Nguyễn, bà họ Mai, thì biết nguyên nhân khiến cho phép tắc trong gia đình được hưng vượng, và phải biết lấy đức hạnh của người phụ nữ để dạy bảo vợ con mình. Vả nói thịnh vượng to lớn có thể bảo vệ lâu dài được, mà không nghĩ là phải lấy cái gì để nắm giữ chăng? Vả nói bé nhỏ yếu đuối không thể phấn phát lên được, mà không nghĩ là phải lấy gì để gắng sức sao? Vả nói thế gia ta, vọng tộc ta, gia thế cao siêu có thể dựa dẫm, mà con người trở nên tự phụ kiêu căng, tự vượt qua phép tắc được chăng? Làm sáng cái ánh sáng trước đây của anh, rủ xuống cái gương soi mãi mãi của tôi, thật đáng kính đáng sợ, đáng bắt chước đáng noi theo, nên xem xét điều đó ở trong cuốn phả ngày nay. Ta muốn có một lời để nói với nhau vậy. Tổ ta có công, tông ta có đức, những gì con cháu ta có được ngày nay đều là cái phúc của tổ tông ta để lại. Có mảnh đất ấy để nhờ cậy rồi, tiếp nối sự tốt đẹp của nó, thực là nhiệm vụ của mọi người chúng ta. Nguồn thiện đã dài rồi, ta phải thuận theo mà dẫn dắt nó, không để mất đi cái đức của ngươi, mà hổ thẹn với tổ tiên. Gốc phúc đã sâu rồi, ta phải vun đắp mà gây trồng nó, không để khuyết đi cái hạnh của ngươi, mà bỏ rơi dòng họ của mình. Ta mong mọi người cùng họ với ta, hãy tôn trọng nghe lời ta nói.  Xưa Tạ Linh Vận(1) có bài thơ thuật lại công đức của tổ tiên, Tô Lão Tuyền(2) có cuốn Tộc phả đình ký, ta chưa sánh kịp được với họ vậy. Với cuốn phả này ta trộm có ý đó. Bậc quân tử đã mất là Phong công, ở nhà thờ tiểu tông trước kia có đắp ngọn núi và biển dả, đề câu đối rằng:

Thuỷ sinh nguyên đức trưng hoa thảo
Di yến tiền công đẳng hải sơn
Nghĩa là:
Đức lớn mới sinh ra, vời hoa cỏ đến,
Công nghiệp của đời trước để lại, đó là biển núi này.

Ta muốn chép lại để khắc ở nhà thờ tiểu tôn. Lại nữa, ở trước cửa mộ có một đôi câu đối rằng:

Hiến Châu hàm tập quán thân khách
Ung Túc nan khuy lễ nhạc đình
Nghĩa là:
Châu Hiến tụ tập các vị khách đội mũ có dải,
Châu Ung, châu Túc khó trộm thấy sân lễ nhạc.




CÂU ĐỐI Ở NHÀ THỜ HỌ

1.  Kháp phùng thánh đại di phong nhật
Cánh thuộc gia nhi thảo chế niên
Nghĩa là:
Vừa gặp ngày được ban phong dưới thời thánh chúa,
Lại thuộc năm nhà con thảo gia qui.
(Con thứ là Phó bảng, Hồng lô tự Thiếu khanh, sung làm
Toản tu Quốc sử quán, tên là Phan Văn Nhã, hiệu Trung Phong vái dâng).
***0***
2.  Yến di thế đức đồng thiên địa
Bao tặng Hoàng ân đạt nhưỡng tuyền
Nghĩa là:
Thế đức để lại đời sau cùng với trời đất,
Ơn vua khen tặng xuống đến tận suối vàng.
(Con thứ là Tú tài, được ban cáo văn phong tặng
 hàm Hàn lâm viện Thị độc, tên là Phan Đình Tuấn  vái dâng).

***0***
3.  Ngô tộc tòng Hương Sơn trạch si dĩ lai
Tổ đức thuật thi truyền Tạ thị
Nghĩa là:
Họ ta từ Hương Sơn chọn đất chuyển chỗ ở đến nay
Ân đức của tổ tiên được ghi chép bằng thơ, truyền cùng họ Tạ
(Con thứ là Thị lang bộ Hộ, sung làm
Tán lý quân vụ,tên là Phan Đình Tuyển vái dâng)
***0***

4.  Gia miếu tự tiên khảo kinh dinh y thuỷ
Bi đình cựu ký ức Tô công.
Nghĩa là:
Đền thờ của nhà từ khi cha xây dựng đến nay vẫn y như ban đầu,
Những ghi chép cũ trên bia để ở đình làm nhớ đến Tô công.
(Con thứ là Thị lang bộ Hộ, sung làm  Tán lý quân vụ, tên là Phan Đình Tuyển vái dâng)

***0***
5.  Khoa hoạn thừa ân thiên tải hội
Lễ thi thụ đức bách niên gia
Nghĩa là:
Vâng nhận ân đức, đường khoa hoạn ngàn năm tụ họp,
Thi lễ trồng đức, trăm năm ở cả một nhà.
(Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ,
Thám hoa Mai Chí Đường kính soạn)

***0***
6.   Hà thuỷ viễn lưu thiên cổ phái
Phan hoa trường dẫn vạn niên hương
Nghĩa là:
Nước sông chảy xa, ngàn xưa đà phân nhánh,
Hoa Phan sực nức, muôn thuở vẫn toả hương.
(Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ,
Thám hoa Mai Chí Đường kính soạn)

***0***
7.   Ngã Phan tộc bốc cư vu tư thập thế
Tiên Phong công khảo miếu ngật kim trùng tu
Nghĩa là:
Họ Phan ta từ khi chọn đất ở đến nay đã qua mười đời,
Nhà thờ do cha là Phong công xây dựng giờ đây tu sửa  lại.
(Cháu nối dõi là Liễu ở huyện lỵ Đông Sơn, kính cẩn vái dâng)

BÀI KHẮC TRÊN BIA NHÀ THỜ HỌ



Dịch dịch gia miếu
Ngã tổ kinh dinh
Tủng hồ tiền
Nhất tự kinh dinh
Tranh vanh dẫn hồ hậu
La thuỷ vu oanh
Công sở thủ trực
Tam hoè tại đình
Sâm sâm đương môn
Ngũ quế tịnh sinh
Đồng thời đằng mậu
Dịch dịch phỉ anh
Vi gia chi cán
Vi quốc chi trinh
Dẫn ngã thư hương
Thế thế lưu hinh.

Nghĩa là:
Nhà thờ to đẹp
Do tổ ta gây dựng
Cao vút ở phía trước
Xây dựng hình chữ nhất
Chêng vênh dẫn phía sau
Sông La uốn lượn
Tự tay ông vun trồng
Ba cây hoè trước sân
Sum suê ngay giữa cửa
Năm cành quế đều xanh
Cùng lúc vụt tốt tươi
To lớn đẹp đẽ
Là cột của nhà
Là trụ của nước
Dẫn dắt con cháu ta theo nghiệp Nho
Đời đời tiếng thơm lưu truyền.









BÀI KHẮC TRÊN LƯ HƯƠNG




Tùng chi tinh
Mai chi anh
Hợp chi dĩ thành
Bá vi thư hương
Duy minh đức hinh
U quang ký phát
Thức uý trầm hương
Linh huân cao
Phảng phất kiến ngã tổ
Vu tường vu canh.












Nghĩa là:
Tinh chất của tùng
Tinh tuý của mai
Họp lại mà thành
Truyền bá nền nếp nhà Nho
Chỉ có đức sáng toả hương
ánh sáng ẩn náu đã phát ra
Để an ủi hương thơm còn tiềm ẩn
Khói hương linh thiêng
Phảng phất thấy ông tổ của ta
ở vách tường, trên mặt nước.




BÀI KHẮC TRÊN CHUÔNG




Đồng chung minh hề khanh khanh
Ngã tổ thính hề hoà thả bình
Trường dĩ viễn hề ngã gia thanh
Nghĩa là:
Chuông đồng kêu boong boong
Tổ tiên ta nghe thấy, lòng yên ả
Dài lại xa, tiếng chuông nhà ta.





BÀI KHẮC TRÊN TRỐNG
           Nghĩa là


Giản giản hề tấu cổ
Tuệ tuệ hề khản khải
Ngã liệt tổ thức chiêu lễ nhi chiêu độ

Thì thùng trống đánh
Dìu dặt cung đàn
Để tỏ lòng thành kính đối với tổ tiên ta.




BÀI KHẮC TRÊN KHÁNH




Bát âm hữu thanh chi tấu
Chí thử nhi tập kỳ đại thành
Lễ nhạc chi đình
Dĩ thử nhi bá hoà minh ư vạn tư niên hữu thanh
Nghĩa là:
Tấu nhạc bát âm
Đến khánh thì kết thúc
Nơi thờ cúng
Dùng khánh để chuyển tải sự hài hoà đến muôn năm






NHỮNG NGƯỜI ĐỖ ĐẠT, LÀM QUAN CÁC ĐỜI

1.Tiền Giám công Phan Trọng Giai:  Sinh năm Bính Tuất. Đỗ 4 trường khoa Canh Tý triều Lê. Là Giám sinh Bác văn đường trường Quốc tử giám. Là con trai của cụ Mật ở chi nhà bác, với ông Tặng thì là Cụ dòng nhà bác.
2. Hậu giám công Phan Duy Xưởng:   Sinh năm Tân Dậu (1741). Đỗ 4 trường khoa Tân Mão niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê (1771). Là Quốc tử sinh trường Quốc tử giám. Là con trai trưởng của ông tổ đời thứ 6 là cụ Kỳ, với ông Tặng thì là bác.
3. Tặng công Phan Duy Tiến:   Được ban cáo văn tặng hàm Phụng nghị đại phu Hàn lâm viện Thị độc. Là con trai của ông tổ đời thứ 7 là cụ Tường Công.
4.Hương công Phan Văn Nhã: Sinh năm Nhâm Tuất (1802). Đỗ Tú tài khoa Tân Tỵ đời Minh Mệnh (1821), Cử nhân khoa Mậu Tý (1828), Phó bảng khoa Kỷ Sửu. Làm quan đến Hồng lô tự Thiếu khanh, Quốc sử quán Toản tu. Mất năm Đinh Sửu, thọ 76 tuổi. Là con trai thứ 2 của ông Tặng Công.
5. Thủ công Phan Văn Phong:   Sinh năm ất Sửu (1805). Đỗ Tú tài khoa Giáp Ngọ đời Minh Mệnh (1834), được ân ban Cử nhân khoa Đinh Dậu (1837), lại đỗ Cử nhân khoa Canh Tý (1840). Làm quan đến Tri phủ phủ Bình Giang, rồi về hưu, mất năm Đồng Khánh Bính Tuất (1886), thọ 82 tuổi. Là con trai thứ 3 của ông Tặng Công.
6. Phong công Phan Đình Tuấn:   Sinh năm Canh Ngọ (1810). Đỗ Tú tài 2 khoa Giáp Ngọ (1834), Canh Tý đời Minh Mệnh (1840). Đặt ra Nghĩa thương, được thưởng trao cho làm Hàn lâm viện Cung phụng, sau được ban cáo văn phong là Hàn lâm viện Thị giảng, hàm Tử. Mất năm Tự Đức Quý Mùi (1883), thọ 74 tuổi. Là con trai thứ 4 của ông Tặng Công.
7. Phủ công Phan Đình Tuyển:   Sinh năm Giáp Tuất (1814). Đỗ Tú tài khoa Canh Tý đời Minh Mệnh (1840), được ân ban Cử nhân khoa Đinh Dậu, lại đỗ Cử nhân khoa Quý Mão đời Thiệu Trị (1843), đỗ Phó bảng khoa Giáp Thìn (1844). Làm quan đến chức Thị lang. Năm Tự Đức Giáp Tý đánh nhau với phỉ bị chết, được truy tặng hàm Tuần phủ. Là con trai thứ 5 của ông Tặng Công.
8. Phan Văn Huyễn:  Sinh năm Kỷ Sửu (1829). Đỗ Tú tài cả 6 khoa năm Tự Đức Canh Tuất (1850). Là con trai của Hương Công Phan Văn Nhã, với ông Tặng thì là hàng cháu.
9. Phan Văn Cơ: Sinh năm Bính Thìn (1856), là ấm sinh. Đỗ Tú tài khoa Giáp Thân đời Kiến Phúc (1884). Là con trai của Hương Công Phan Văn Nhã với ông Tặng thì là hàng cháu.
10. Phan Văn Bân: Sinh năm Nhâm Tý (1852). Đầu năm Thành Thái Giáp Ngọ (1894) được trao hàm Bát phẩm, làm Thông phán ở Kiến An, rồi về hưu. Là con trai của Ông Thủ , với ông Tặng thì là hàng cháu.
11. Phan Văn Dư: Sinh năm Nhâm Thìn (1832). Đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ đời Tự Đức (1858). Làm quan đến chức Tuần phủ Trị Bình. Là con trai của ông Phong, với ông Tặng thì là hàng cháu.
12. Phan Hải Châu: Sinh năm Đinh Mão (1867). Đỗ Tú tài khoa Bĩnh Ngọ đời Thành Thái (1906). Là con trai của ông Phan Đình Tuấn (Phong Công), với ông Tặng thì là hàng cháu.
13. Phan Đình Thông: Sinh năm ất Mùi (1835). Đỗ Tú tài khoa Canh Ngọ đời Tự Đức (1870). Làm quan đến chức Phó quản đốc tàu thuỷ, sau bị giáng. Là con trai của ông Phủ công Phan Đình Tuyển, với ông Tặng thì là hàng cháu.
14. Phan Đình Thuật: Sinh năm Đinh Mùi (1839). Đỗ Tú tài khoa Đinh Mão đời Tự Đức (1867), đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868). Làm quan đến chức Giáo thụ phủ Anh Sơn, thay giữ ấn triện, giải quyết các công việc của phủ Tương Dương. Là con trai của ông Phủ công Phan Đình Tuyển, với ông Tặng thì là hàng cháu.
15. Phan Đình Phùng: Sinh năm Đinh Mùi (1847). Đỗ Cử nhân khoa Bĩnh Tý đời Tự Đức (1876), đỗ Đình nguyên Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1877). Làm quan đến chức Chưởng ấn, vì chỉ trích quan lại trong vụ phế lập bị giáng cho về. Năm Hàm Nghi ất Dậu (1885), vâng chỉ triệu đến hành tại để hộ giá, rồi bị bệnh, chết ở trong núi. Là con trai của ông Phủ công Phan Đình Tuyển, với ông Tặng thì là hàng cháu.
16. Phan Đình Vận: Sinh năm Kỷ Dậu (1849). Đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão đời Tự Đức (1867), đỗ Phó bảng khoa Mậu Thìn (1868). Làm quan đến chức Tri phủ phủ Xuân Trường, sau bị giáng. Là con trai của ông Phủ công Phan Đình Tuyển, với ông Tặng thì là hàng cháu.
17. Phan Văn Liễu: Sinh năm ất Tỵ (1845). Đỗ Tú tài 2 khoa Đinh Mão, Quý Dậu đời Tự Đức (1867, 1873). Làm quan đến chức Đồng Tri phủ, lãnh chức Tri huyện huyện Lệ Thuỷ, sau bị giáng. Là cháu của ông Phan Nguyên Công, con trai của Duy Trinh, với ông Tặng  thì là chắt đích tôn.
18. Phan Văn Đại: Sinh năm Tân Tỵ (1821). Hiện làm Tri phủ phủ Vĩnh Tường, rồi thăng làm án sát sứ Ninh Bình. Là cháu của ông Thủ công Phan Văn Phong, con trai của Văn Bân, với ông Tặng thì là hàng chắt.
19. Phan Văn Du: Sinh năm Giáp Thìn (1844)(1). Đỗ Cử nhân khoa Bính Tý đời Tự Đức (1876). Làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị giảng, sau về hưu. Là cháu của ông Phong công Phan Đình Tuấn, là con trai của Tuần phủ Văn Dư, với ông Tặng thì là hàng chắt.
20. Phan Hải Tham: Sinh năm Canh Dần(1890)(3). Đỗ Tú tài khoa (?). Làm Hàn lâm Thị chiếu. Là cháu của ông Phong công Phan Đình Tuấn, con trai của Hải Châu, với ông Tặng thì là hàng chắt.
21. Phan Văn Thưởng: Sinh năm Đinh Mão (1867). Đỗ Tú tài khoa Bính Ngọ đời Thành Thái (1906), được thưởng hàm Hàn lâm viện Cung phụng. Là chắt của ông Phan Nguyên Công, là con trai của Tri huyện Văn Liễu, với ông Tặng thì là hàng chắt.

Mùa xuân năm Thành Thái Đinh Mùi,
Cháu ở chi thứ là Hải Châu kính chép



















VỀ CHI HAI VÀ DÒNG HỌ PHAN
THÔN ĐÀO XÁ - XÃ TRUNG CHÍNH - HUYỆN LƯƠNG TÀI TỈNH BẮC NINH

THẾ HỆ THỨ NHẤT (ĐỜI 9 ĐẠI TÔN)

Đức cao tổ Phan Văn Nhã (Thường gọi là Can Hườngtự Thiếu khanh giữ chức Hồng lô, sung làm Quốc sử quán toản tu. Ông tên chữ là Chính Phủ, hiệu là Thận Trai tiên sinh Phan phủ quân (tên huý là Giám), là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Duy Tiến (đời 08). Ông sinh năm Nhâm Tuất (1802), mất vào ngày 15 tháng Hai năm Đinh Sửu (1877), hưởng thọ 76 tuổi. Ông là người kính yêu cha mẹ, nhường nhịn anh em, chuyên cần học tập. Khoa Mậu Tí (1828), ông từ Tú tài đỗ Cử nhân; khoa thi Hội năm Kỉ Sửu (1829), ông đỗ Phó bảng. Trải qua các chức Tri phủ phủ Qui Nhơn, Lang trung bộ Lễ, án sát Quảng Trị. Rồi vì phạm lỗi, bị phát vãng đi An Giang, sau được trên ban ơn chuẩn cho khôi phục, bổ làm Giáo thụ phủ Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá, quyền Đốc học Thanh Hoá. Bởi có mẹ già, ông làm đơn xin nghỉ để về phụng dưỡng mẹ. Sau khi mẹ mất, ông lại được bổ làm Sử quán toản tu, thăng Hồng lô tự Thiếu khanh, nhưng vẫn sung làm Toản tu. Được ít lâu, ông nghỉ dưỡng bệnh, rồi do có tuổi mà mất ở nhà.
Ghi chú:
Tiên tổ Phan Văn Nhã là một trong những người đầu tiên trong dòng tộc họ Phan tiếp nối tiền nhân sưu tầm tư liệu, tìm hiểu về dòng họ để viết “Phan gia tông phả loại biên” (201 tran)g bằng chữ Hán Nôm. Người cũng là tác giả cuốn “Gia phả tạp biên”(124 trang) bằng chữ Hán Nôm mang ký hiệu A3075 trong đó có Việt Yên Phan gia thế phả. Hai “gia bảo” này đang được Viện nghiên cứu Hán Nôm lưu giữ. Tiên tổ Phan Văn Nhã là Thủy tổ của chi II ta. Những đóng góp của Người với dòng họ Đại tôn và chi II là vô giá. Ngày nay, con cháu họ Phan biết nguồn gốc của mình, biết cuộc sống của các cụ liệt tổ liệt tông cách chúng ta hàng bốn, năm trăm năm có lẻ; biết gia thế của dòng họ từ những “ngày khai sơn lập ấp”, biết sự hiển đạt, thăng trầm của dòng họ phần nhiều cũng là do Người để lại.
Mạch viết phả của Họ ta tiếp sau tiên tổ Phan Văn Nhã có tiên tổ Phan Hải Châu (đời 10, chi 04) với “Đông Thái Phan Tộc tiền phả lược biên”(1907), trong đó Người để lại “Bài Bạt” bất hủ. Đọc bài bạt này ta như thấy những gian nan vất vả của tiền nhân sự phấn đấu vươn lên của các thế hệ và những suy tư, day dứt của Người với hậu thế. Với chi II chúng ta nếu không có tiên tổ Phan Văn Liễu (dòng trưởng) và con trai của Người là Phan Văn Quý ghi chép lại suốt từ năm 1911 đến năm 1945 và tiên tổ Phan Kim Huy cùng người anh ruột là cụ Phan Văn Duật viết “Gia Phả Họ Phan Đình Làng Đông Thái – Xã Đức Phong – Huyện Đức Thụ - Tỉnh Hà Tĩnh” viết năm 1987 thì làm sao chúng ta biết được hoàn cảnh dẫn đến chi II của mình phải rời bỏ quê hương Đông Thái ra định cự tại Bắc Ninh cho đến ngày nay.
Vợ cả của Người là con gái của cụ Tiến sĩ Tế tửu Phan Hầu (giỗ ngày 17 tháng Tư) người thôn An Hội xã ta, sinh con trai là Phan Văn Huyễn (6 khoa đỗ Tú tài, giỗ ngày mồng 3 tháng Giêng); con gái là Thị Xuân (gả cho Tú tài Phan Đồng Tiếu, con trai của quan Tri huyện Thiên Bản, người xã An Trung).
    * Vợ lẽ là bà Phạm Thị Đặc người huyện Lôi Dương phủ Thọ Xuân, sinh con trai là Phan Văn Cơ (đỗ Tú tài, là ấm sinh trường Giám gọi là đồ Đông, giỗ ngày mồng 7 tháng Giêng); con gái là Phan Thị Muội (gả cho ông đồ Mặc người xã Dị ốc huyện Hương Sơn, giỗ ngày 12 tháng Mười hai) ; con gái là Phan Thị Cheo (đến ở quê mẹ, lấy chồng người tỉnh Nam Định, ngụ cư ở huyện Lôi Dương tỉnh Thanh Hoá).                                   
Vợ lẽ của Người tên là cố Hoan, toàn sinh con gái (có một người con gái tên là cô Nguyệt gả cho người xã Mỹ Dụ (?).
Vợ lẽ của Người tên là Phạm Thị Viêm sinh được 1 trai là Phan Văn An (nhà nghèo, đến tỉnh Hưng Yên, lấy con gái của ông Bộ Vị người thôn Trinh Nguyên đình ta làm vợ, sinh được 1 trai là Phan Văn Duy, hiện sống ở tỉnh Hưng Yên).
Vợ lẽ của Người tên là cố , không có con (giỗ ngày mồng 9 tháng Chín).
Vợ lẽ của Người không rõ họ tên. Nguyên do năm ông đến An Giang, có lấy một người thiếp, sinh con trai là Phan Văn Thành, trước nay vẫn sinh sống ở An Giang, không về quê quán, nay nghe tin vẫn còn sống, chỉ không có con trai, phỏng chừng cũng đã 70 tuổi.

THẾ HỆ THỨ HAI ( ĐỜI 10 ĐẠI TÔN )

1.Tiên tổ Phan Văn Huyễn tên tự là Quang Phủ, thuỵ là Phác Hậu, hiệu là Thái Giang cư sĩ Phan phủ quân (tên huý là Sâm) ,thường gọi là Cụ Tú Dê. Người đỗ Tú tài 6 khoa, vào sát hạch để chờ bổ chức. Người là con trai trưởng của tiên tổ Phan Văn Nhã (đời 09) với người vợ cả họ Phan khác người thôn An hội xã ta. Người sinh năm Kỷ Sửu (1829) , mất ngày mồng 3 tháng Giêng năm 1878, hưởng thọ 50 tuổi. Sinh thời Người thích rượu, trình độ học vấn cao, con em trong họ hàng làng xóm phần nhiều nhờ Người gầy dựng cho. Người đi thi hơn mười khoa chưa từng bị trượt lần nào ở trường thứ nhất, người cùng trang lứa đều khâm phục. Chẳng ngờ mệnh vận khó khăn, rốt cục dừng mãi ở hai chữ Tú tài, mà không nhích lên được nữa.
Vợ của Người là con gái thứ hai của ông Niết đài họ Lê ở thôn Trung Lễ (Giải nguyên Lê Văn Tự, Cử nhân Lê Văn Thống, bà Biện lý Thực, bà cụ Lê Kinh Hương Sơn đều là anh chị em của bà vậy), tên hiệu là Trinh Cầm, nhụ nhân, (giỗ ngày 14 tháng Tám), sinh được 2 trai 2 gái. Con trai trưởng là Phan Văn Bính, đi thi đã đỗ trường 1 (lấy con gái của quan phủ Trung Khánh người xã An Trung, sinh được 1 trai là Phan Văn ĐônVăn Bính chết sớm, vợ cải giá đi lấy người khác, con là Văn Đôn trưởng thành, lấy vợ là con gái của ông Viên Soạn người thôn An Hội, sau đó gặp loạn, Văn Đôn cũng chết sớm, không có con nối dõi). Con trai thứ là Phan Văn Quýnh lấy con gái của Tú tài Hoàng Khắc Giai (gọi là cụ Tú Sơn) người thôn ta, tên là Hoàng Thị Lan làm vợ, sinh được 1 trai 2 gái. Con trai là Phan Văn Trì tục gọi là đồ Duệ Trì, hiện theo ông Hàn Lừng ( là anh ruột của Mẹ tên thật là Hoàng Huyên sinh năm 1859)  ra Bắc Kỳ sinh sống bằng nghề nông. Con gái là Phan Thị Hét gả cho Đông Khê ở thôn Trung Lễ, gọi là đồ Hoàng. Tục gọi mụ đồ Hoàng Đông Khê là bà vậy. Con gái là Phan Thị Đợt gả cho con của ông bá hộ Thước ở Thịnh Quả. Nay chị Cháu Mười ở trong thôn là con gái của Thị Đợt vậy. Sau khi bà Dê qua đời, ông Dê lại lấy con gái ông đội Vinh người thôn Trung Lễ làm thiếp, sinh được 1 trai cũng chết sớm.
2. Tiên tổ Phan Văn Cơ tên tự là Trọng Đường, thuỵ là Phác Trực Phan phủ quân là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Văn Nhã (đời 09) với người vợ lẽ tên Phạm Thị Đặc, là ấm sinh trường Giám, thi đỗ Tú tài. Sinh năm Bính Thìn (1856); giỗ ngày mồng 7 tháng Giêng, hưởng thọ 30 tuổi. Vốn là người chất phác chân thực, ít hoà hợp với người khác. Sau khi bố mất, nhà nghèo, Người lên Kinh vào trường Giám làm ấm sinh, ngày đêm chăm chỉ học tập, không chơi bời. Thi trường ở Kinh đỗ Tú tài, nhưng vẫn ở lại học tập, chờ khoa thi sau. Chẳng may trời keo lận đối với tuổi của Người, nên không được như ý: ít lâu sau bị bệnh mà chết.
 * Vợ của Người là con gái của thày tú Mục ở xã Việt An, vào năm Khải Định 4 (1919) được triều đình ban cho một tấm biển “Tiết phụ”, sinh được 1 trai là Phan Khắc Cần, tục gọi Đồ Ngoéc Đông. Hiện trông coi nhà thờ tiên tổ Phan Văn Nhã vì người cháu trưởng là Duệ Trì đi ra Bắc làm ăn
3. Tiên tổ Phan Văn Yên là con trai thứ 3 của tiên tổ Phan Văn Nhã (đời 09) với người vợ lẽ tên Phạm Thị Viêm, (không rõ ngày sinh, ngày mất). Nhà nghèo, Người đến tỉnh Hưng Yên làm người giúp việc. Sau, Người lấy con gái của ông Bộ Vị người thôn Đình ta làm vợ, sinh được 1 trai là Phan Văn Duy, cùng với ông ngoại là Bộ Vị đến sinh sống ở tỉnh Hưng Yên, từ đó không có tin tức.

THẾ HỆ THỨ BA (ĐỜI 11 ĐẠI TÔN)
1.1 Tiên tổ Phan Văn Bính là con trai trưởng của tiên tổ Phan Văn Huyễn (đời 10). Vợ là con gái tri phủ Yên Khánh sinh được 1 trai tên là Phan Văn Đôn. Tiên tổ Phan Văn Đôn lấy con gái ông Viên Soạn. Cả hai tiên tổ đều mất sớm không có người nối dõi.
1.2 Tiên tổ Phan Văn Quýnh là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Văn Huyễn (đời 10). Không rõ năm sinh, mất ngày 20 tháng 09. Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình hàn nho nhưng do bố mất sớm, hoàn cảnh eo hẹp nên người không tham gia thi cử, nối nghiệp cha là dậy học, bốc thuốc. Vợ của Người là Hoàng Thị Lan (em ruột tiền nhân Hàn Lừng) không rõ năm sinh. Người mất ngày 21 tháng 12, sinh được một trai tên Phan Văn Trì thường gọi là Đồ Duệ Trì và hai gái là Phan Thị Hét lấy ông đồ Vàng người ở Trung Lễ. Gái thứ là Phan Thị Đại lấy chồng là ông Bá hộ Thước.
 Ghi chú: Do người anh ruột của bà Lan là ông Hàn Lừng sinh năm 1859, có lẽ cả tiên tổ Phan Văn Quýnh và tiên tổ Hoàng Thị Lan đều sinh vào khoảng thời gian từ 1861 – 1863. Suy ra khi cha mất tiên tổ Phan  Văn Quýnh khoảng 17,18 tuổi.
2. Tiên tổ Phan Khắc Cần (thường gọi là Đồ Ngoéc Đông) là con trai đầu của tiên tổ Phan Khắc Cơ (đời 10), sinh khoảng năm 1880 mất khoảng năm 1932, giỗ ngày 21/10 âm lịch. Ông là Người chịu khó học hành nhưng đi thi đều không đỗ. Do giỏi chữ Hán nên về nhà dậy học và bốc thuốc chữa bệnh.
* Vợ cả của Người là con gái ông Tú Châu ở Việt Yên tên là Lê Thị Thột không có con, giỗ ngày 08/04 âm lịch
* Vợ hai của Người cũng ở Việt Yên, tên Bùi Thị Lan sinh khoảng năm 1888 mất khoảng năm 1954, giỗ ngày 08/02 âm lịch. Ông bà sinh được hai gái. Gái đầu là Phan Thị Phương sinh năm 1910, lúc nhỏ còn được gọi là O Niên lấy ông Lê Như Bột người Trung Lễ và sinh được 01 trai 02 gái (trai là Lê Đức Hinh công tác tại sở giao thông Hà Tĩnh hiện nghỉ hưu tại thị xã Hồng Lĩnh. hai gái là Lê Thị Lài làm bộ Nội Thương đã nghỉ hưu hiện ở phố Hoàng Hoa Thám - HN và Lê Thị Nguyệt hiện nghỉ hưu tại thị xã Hà Tĩnh). Gái thứ là Phan Thị Hồng sinh năm 1914 tên thường gọi là O Điu lấy chồng tên là Lê Mân người Trung Lễ, và bốn trai là Phan Phi Hùng, Phan Trọng Lân (mất sớm), Phan Thúc Kỳ, Phan Quý Lộc (mất sớm). Phần mộ của tiên tổ Phan Khắc Cần và Bùi Thị Lan được con cháu xây cất tại Rú trại -Tùng Ảnh - Đức Thọ - Hà Tĩnh
3. Tiên tổ Phan Văn Duy  là con trai của tiên tổ Phan Văn An (đời 10), sinh được một trai nhưng ra Hưng Yên làm ăn sinh sống từ nhỏ. Từ đó tới nay không có tin tức gì

THẾ HỆ THỨ TƯ ( ĐỜI 12 ĐẠI TÔN)
1. Tiên tổ Phan Văn Trì ( 1886 - 1948) là con trai trưởng của tiên tổ Phan Văn Quýnh (đời 11). Lúc mới 12 tuổi thì bố mất, ông phải bỏ học đến ở với người bác (anh mẹ) là cụ Hàn Lừng để kiếm sống. Cụ Hàn Lừng có 08 người con ăn học nên ngoài việc làm các công việc phục vụ trong gia đình người bác, Ông còn phải tham gia làm các công việc ngoài đồng ruộng. Khoảng 20 tuổi thì ông xây dựng với bà Dương Thị Hai người cùng làng Đông Thái. Sau khi sinh được một trai là Phan Văn Chúc và một gái là Phan Thị Ba. Ông bà đưa gia đình theo cụ Hàn Lừng ra Ấp Đông Côi - Gia Đông - Thuận Thành - Bắc Ninh sinh sống (theo gia phả họ Hoàng thì cụ Hàn Lừng ra định cư tại Ấp Đông Côi vào khoảng 1910 - 1915). Sau hơn 10 năm sống với cụ Hàn Lừng ở Ấp Đông Côi ông bà chắt chiu dành dụm mua được mái nhà cũ và bắt đầu ra ở riêng nhưng vẫn làm công cho người Bác, đồng thời lĩnh canh được 05 sào ruộng để cầy cấy. Ngoài ra còn làm thêm nghề xay sát. Trong thời gian ở Ấp Đông Côi ông bà sinh thêm được 03 trai (là Phan Văn Duật, Phan Kim Huy, Phan Văn Học (Ngọc) ) và một gái là Phan Thị Thảo.
Từ những năm 1930 trở đi do con cái đã lớn, một số đã dựng vợ gả chồng nhưng ruộng đất lại không nhiều nên cuộc sống thời kỳ này tuy có bớt khó khăn hơn trước, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều thiếu thốn. Người con cả là Phan Văn Chúc phải về Thanh Hóa làm ăn và nhận làm thêm một số ruộng của ông Bẩy (con cụ Hàn Lừng) tại ấp Đào Xá – Xã Trung Chính – Huyện Lương Tài – Tỉnh Bắc Ninh làm thêm. Vào khoảng năm 1935 – 1937 ông bà chuyển cả gia đình vào ấp Đào Xá làm ruộng. Đánh dấu sự có mặt của họ Phan tại đây. Đào Xá là một làng quê thuộc xã Trung Chính – Lương Tài – BN. Theo nhiều cụ hiện còn sống kể lại đây là vùng “Chiêm khê mùa thối”  một năm chỉ cấy được một vụ lúa, không có nghề phụ nên nói chung nhân dân ở vùng này rất nghèo. Tôi còn nhớ ấp Đào Xá khi đó chỉ có một đường vào, chính giữa có một sân gạch khá lớn trước sân gạch là một cái giếng đào rất rộng để cung cấp nước ăn cho toàn Ấp. Cụ Bẩy (họ Hoàng) người lập lên ấp này tự bao giờ tôi không rõ. Khi lập Ấp cụ cho đào Cừ xung quang rất rộng khoảng 5 - 6m sâu khoảng 2 - 3m. Giữa Ấp là một khu đất rộng khoảng 300 – 400 m2 cao khoảng 02m là nơi sinh sống của gia đình cụ Bẩy. Những người làm tá điền cho cụ sinh sống xung quanh Ấp chỉ khoảng 17,18 gia đình. Ông nội tôi được cụ Bẩy giao cho làm quản lý và trực tiếp lĩnh canh một số ruộng đất để cầy cấy làm ăn. Ông bà nội tôi sống với người con trai thứ hai là Phan Văn Duật. Ông mất vào ngày mồng 10 tháng 04 năm Mậu tý (1948) thọ 63 tuổi. Bà tên gọi Dương Thị Hai (người cùng quê Đông Thái) mất ngày 25 tháng 09 năm Mậu tuất (1958) thọ 73 tuổi. Mộ của ông bà được con cháu xây cất khang trang tại ấp Đào Xá.
2.1 Tiên tổ Phan Phi Hùng là con trai đầu của tiên tổ Phan Khăc Cần (đời 11) sinh năm 1918. Hồi nhỏ còn có tên gọi là Mười Anh. Lớn lên làm nghề May và nhân viên áp tải cho ngành Hỏa Xa ở Sài Gòn. Sau cách mạng tháng 08/1945 làm công an ở tỉnh Thanh Hóa. Năm 1950 Ông mất trên đường đi công tác do bị máy bay địch oanh tạc. Vợ là cụ bà Mai Thị Tứ người làng Nồi - Đông Thái sinh năm 1921 là con thứ tư của cụ cử nhân Mai Văn Dương người cùng làng. Sinh được một người con trai tên là Phan Xuân Hiếu hiện nay đang sống tại thành phố Đồng Hới – Quảng Bình. Sau khi chồng mất cụ đưa người con trai mới 06 tuổi theo nhà ngoại vào sinh sống tại Quảng Bình. Năm 1958 cụ đi bước nữa với cụ ông Trần Văn Vỹ sinh năm 1917 (hiện đã mất). Hai cụ có 02 trai …. Đại gia đình hiện tại đang sinh sống tại TP Đồng Hới – Quảng Bình.
2.2 Tiên tổ Phan Thúc Kỳ (1924 - 2000) là con trai thứ của tiên tổ Phan Khắc Cần (đời 11) khoảng năm 1941 đi làm ruộng cho gia đình người anh là ông Phan Văn Trì tại ấp Đào Xá. Mấy năm sau về quê học và làm thợ giầy, làm công nhân tại nhà máy rượu Nam Đồng Ích (Thanh Hóa), làm quân nhu và Kinh tài liên việt (quân khu 4). Năm 1952 về quê làm thợ cắt tóc, cầy cấy. Hòa bình lập lại năm 1954 ông làm tại công ty Phương tiện vận tải cấp I (Bộ nội thương), xưởng vật liệu Nghệ An. Sau đó nghỉ hưu tại quê nhà học bốc thuốc, châm cứu và chữa trị cho bà con làng xóm. Cụ mất vào ngày 15 tháng 05 năm Canh thìn (2000) thọ 77 tuổi. Phần mộ được chôn cất tại Rú Trại – Tùng Ảnh - Đức Thọ - Hà Tĩnh).
Vợ là Lê Thị Dụ người cùng quê sinh năm 1922 làm nghề nuôi tằm dệt vải, buôn bán vặt tại chợ (hiện đang sinh sống với người con trai là Phan Thế Ngộ tại Hà Nội). Hai cụ sinh đươc hai trai (là Phan Như Huyễn liệt sỹ chống Mỹ và Phan Thế Ngộ) và hai gái là Phan Thị Đức và Phan Thị Hảo.

THẾ HỆ THỨ NĂM ( ĐỜI 13 ĐẠI TÔN)
1.1  Tiên tổ Phan Văn Chúc  (1906 - 1978) là con trai trưởng của tiên tổ Phan Văn Trì (đời 12). Do hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn nên khi lớn lên ít được học hành phải bươn trải kiếm sống từ lúc nhỏ, tính tình cương trực, thẳng thắn. So với anh em mình ông là người có nhiều thiệt thòi. Sau một thời gian buôn ba kiếm sống ở Thanh Hóa khoảng cuối những năm 1940 ông cùng gia đình về định cư tại ấp Đào Xá. Thời kỳ năm 1955 – 1958 ông đã từng làm phó chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Ông mất ngày 12 tháng 06 năm Mậu Ngọ (1978) thọ 73 tuổi.
    * Vợ là bà Vũ Thị Em (1903 -1990) người cùng quê Đông Thái. Bà là một phụ nữ cam chịu, chắt chiu, hiền lành, chất phát cả đời vì chồng, vì con, vì cháu. Bà mất vào ngày 18 tháng 10 năm Canh Ngọ (1990) thọ 88  tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng năm 1997 – 1999 gia đình người con trai đã đưa hài cốt Người về quê (Đào Xá) án táng bên cạnh chồng tại nghĩa trang của dòng họ. Ông bà sinh được hai trai là Phan Văn Hòa và Phan Văn Thuận (mất sớm) và một người con gái đầu là Phan Thị Lý.
1.2 Cụ Phan Văn Duật (thường gọi là cụ Sửu) là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Văn Trì (đời 12), sinh năm 1916 nay đã 94 tuổi. Lúc nhỏ đi học khi cách mạng 1945 nổ ra cụ tham gia cách mạng từ 1949 với các công việc: Dậy bình dân học vụ, giải truyền đơn, tham gia các hội chống Pháp… Hòa bình lập lại (1954) Người tham gia chính quyền xã đã từng là phó chủ tịch ủy ban hành chính xã Trung Chính. Trong cải cách ruộng đất  bị quy oan là địa chủ sau được sửa sai và từ đó tiếp tục công tác tại xã và Công ty thực phẩm Huyện Gia Lương cho đến khi nghỉ hưu 1976. Cụ vào Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1949 được nhận huy hiệu 50 năm tuổi đảng. Cụ được sống gần gũi với bố mẹ nhất, cũng là người có công phụng dưỡng hầu hạ lúc bố mẹ già cả và cả khi bố mẹ qua đời. Cụ là người có nhiều điều kiện và khả năng giúp đỡ, hướng dẫn và xây dựng cho con cháu họ Phan. Trong cuộc sống cụ cũng tỏ ra là người lao động giỏi và có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Cụ là người hiền lành chất phát không những được con cháu trong dòng tộc mà bà con lối xóm, đồng nghiệp đều rất kính trọng. Cụ là người sống có tâm; Năm 2002 Cụ và con cháu đã hiến khoảng 180m2 để Họ xây dựng nhà thờ tại một vị trí khá đắc địa.
Vợ của cụ là Dương Thị Sáu (1914 - 1990) người cùng quê Đông Thái - Đức Thọ - Hà Tĩnh. Sinh thời cụ bà là người hiền lành cả cuộc đời vì chồng vì con. Cụ mất ngày mồng 10 tháng giêng năm Canh tuất (1990) thọ 77 tuổi. Mộ hiện được cải táng tại nghĩa trang dòng họ ở thôn Đào Xá.
Hai cụ sinh được hai người con trai và bốn người con gái: Phan Đình Tài (mất sớm), Phan Đình Khôi, Phan Thị Sửu, Phan Thị Tính, Phan Thị Tân, Phan Thị Thân..

Bổ sung 11/2012:Cụ Phan Văn Duật mất ngày 29/03 năm Nhâm Thìn (2012) thọ 97 tuổi. Cụ được Đảng, Nhà nước tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

1.3 Tiên tổ Phan Kim Huy (1918 - 1992) Người là con trai thứ ba của tiên tổ Phan Văn Trì (đời 12). Lúc nhỏ được bố mẹ cho ăn học nhưng cũng chỉ học hết Thành chung (cấp II) do hoàn cảnh gia đình nghèo túng nên ở nhà làm ruộng và dậy học. Bắt đầu tham gia cách mạng từ tháng 08 năm 1945 tại quê nhà (Lương Tài - Bắc Ninh), vào Đảng cộng sản Đông Dương năm 1946. Đã từng làm bí thư liên chi bộ xã Trung Kênh (nay là xã Trung Chính và Kênh Vàng), Chủ tịch mặt trận Việt minh huyện Lương Tài; Tham gia chiến dịch biên giới, chiến dịch Điện Biên Phủ những năm 1950 – 1954. Tháng 01 năm 1951 được TW Đảng điều về và là những người đầu tiên thành lập NHNNVN. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng, Người được TW cử về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, công tác tại Vụ tổ chức cán bộ NHNNVN cho đến lúc nghỉ hưu với chức vụ là Trưởng phòng cán bộ. Người được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương khánh chiến Hạng ba, được tặng Huy hiệu 40 năm tuổi đảng. Được Đảng và Nhà nước công nhận là “Cán bộ lão thành Cách mạng”.
Tiên tổ Phan Kim Huy là người sống  rất tình cảm, nhân hậu không chỉ với các con mà với tất cả con cháu, anh em trong dòng tộc, làng xóm và đồng nghiệp. Người tận tâm giúp đỡ con cháu khi họ có khó khăn, dậy bảo dìu dắt con cháu mình vươn lên trong cuộc sống. Ngay sau khi hòa bình lập lại trong điều kiện miền Bắc lúc đó còn nhiều vất vả gian lao nhưng Người đã tìm về quê cha đất tổ tại Đông Thái - Đức Phong - Đức Thọ - Hà Tĩnh. Vừa là thăm quê, vừa là tìm hiểu cội nguồn dòng họ mình. Đồng thời có những đóng góp và cùng một số bà con trong dòng họ Đại Tôn đặt nền móng đầu tiên trong việc xây dựng lại nhà thờ Đại Tôn tại làng Đông Thái. Suốt những năm sau đó Người để dành nhiều thời gian cho việc sưu tập gia phả họ Phan và năm 1987 Người cùng người anh là Phan Văn Duật viết “Gia Phả Họ Phan Đình” Đông Thái - Đức Phong - Đức Thọ - Hà Tĩnh. Nội dung cuốn phả trên tuy còn đơn sơ nhưng về cơ bản là phù hợp với quyển “ Phan Gia Tông Phả Loại Biên” của phó bảng Phan Văn Nhã và các tiền nhân Phan Hải Châu, Phan Văn Liễu, Phan Văn Quý viết được tìm thấy và dịch vào năm 1997 nhất là về hoàn cảnh của chi hai chúng ta.
Người mất ngày 25 tháng 11 năm Nhâm Thân (1992) thọ 75 tuổi.
* Vợ của Người là Phạm Thị Bát (1921 - 1995) cũng là người Đức Phong - Đức Thọ - Hà Tĩnh. Bà là người phụ nữ thuần khiết, nuôi dậy con cái khi chồng vắng nhà. Năm 1960 Bà ra Hà Nội và làm ở Công ty ăn uống Hồ Gươm cho đến khi nghỉ hưu (1980). Bà cũng được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến Hạng nhất. Bà mất ngày mồng 02 tháng 08 năm Ất Hợi (1995). Mộ phần của ông bà được cải táng tại nghĩa trang của dòng họ tại Đào Xá - Trung Chính - Lương Tài - Bắc Ninh.
Ông bà sinh được năm người con trai là Phan Văn Chiểu (mất sớm) Phan Đức TháiPhan Đức Bảo, Phan Đức Sơn (Hợp) và một người con gái xấu số đã mất khi vừa ra đời nên chưa kịp đặt tên. Ông bà còn nuôi một người cháu ruột (con cô em gái) là Đoàn Thị Hồng và nhận làm con từ lúc còn nhỏ.
1.4 Tiên tổ Phan Văn Học (liệt sỹ chống Pháp) (1923 - 1953). Người là con trai út của tiên tổ Phan Văn Trì (đời 12). Được lớn lên trong cao trào cách mạng tháng 08 năm 1945, Ông xung phong vào giải phóng quân đi tiễu phỉ ở vùng Đông bắc sau bị ốm được cho về điều trị sau đó tham gia xã đội xã Trung chính, đến đầu năm 1950 tham gia bộ đội huyện Lương tài. Đến cuối năm 1953 thì hi sinh trong trận chống càn của Pháp tại làng Thiên Phúc - xã Trung Chính, lúc đó Người giữ chức đại đội phó. Vợ của Người tên là Đoàn Thị Ân cũng sinh năm 1923 người làng Đào Xuyên cùng xã. Ông bà sinh được một gái tên là Phan Thị Chinh. Mộ của tiên tổ Phan Văn Học hiện được an táng tại nghĩa trang liệt sỹ xã Trung Chính. Năm 2008 được sự đồng ý của Bà con trong họ, con cháu đã xây một bia tưởng niệm tiên tổ  Phan Văn Học tại nghĩa trang dòng họ.

Bổ sung năm 2012: Cụ bà Đoàn Thị Ân mất năm 2010.

1.5 Tiên tổ Phan Thị Ba (1908 - 1993) người là con gái đầu của tiên tổ Phan Văn Trì (đời 12). Chồng của Người tên là Phan Văn Định (thuộc họ Phan Trọng ở Đông Thái - Đức Phong - Đức Thọ - Hà Tĩnh). Cũng vì hoàn cảnh khó khăn nên theo họ hàng ra làm ruộng tại ấp Khám - Gia Đông - Thuận Thành - Bắc Ninh từ những năm đầu thế kỷ 20. Ông bà sinh được 05 người con nhưng nay chỉ còn 01 trai 02 gái là Phan Văn Thực, Phan Thị Thân, Phan Thị Tuyết. Ông mất ngày 11 tháng 04 năm Tân Mùi (1991), bà mất ngày 07 tháng 04 năm Quý Dậu (1993). Mộ ông bà được cải táng tại ấp Khám.
1.6 Tiên tổ Phan Thị Thảo (1927 - 1955) Người là con út của tiên tổ Phan Văn Trì (đời 12). Vào những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, Người tham gia tích cực các phong trào cách mạng tại địa phương (có thời kỳ làm chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ xã Trung Chính). Chồng của người là ông Đoàn Huy Thắng người thôn Đào Xuyên. Ông Thắng được Đảng và Nhà nước công nhận “Cán bộ tiền khởi nghĩa”. Bà mất ngày 24 tháng 09 năm Ất Mùi (1955). Sau khi bà mất ông lấy người vợ kế tên là …. Người làng Trừng Xá xã bên. Ông Thắng bà Thảo sinh được 02 người con gái là Đoàn Thị Hiền (sinh năm 1950) và Đoàn Thị Hồng (sinh năm 1953). Với Người vợ kế Ông bà sinh được 02 trai 03 gái là Đoàn Huy Tiếp, Đoàn Huy Ước, Đoàn Thị Hoa, Đoàn Thị Mai, Đoàn Thị Thơm.
2. Cụ Phan Xuân Hiếu sinh năm 1948 là con trai độc nhất của tiên tổ Phan Phi Hùng (đời 12). Do bố mất lúc mới 06 tuổi nên cụ theo mẹ về Đồng Hới - Quảng Bình sinh sống. Do xa quê từ lúc còn quá nhỏ nên cụ ít có dịp về quê hương bản quán tại Đức Phong - Đức Thọ - Hà Tĩnh. Cụ đã về hưu năm 2008 với cương vị là hiệu trưởng trường PTCS. Cụ là Đảng viên ĐCSVN, được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ Hạng Nhất. Vợ là cụ bà Trần Thị Hường sinh năm 1950 người Quảng Bình cũng làm nghề dạy học. Cuộc sống khá ổn định. Hai cụ sinh được 02 trai là Phan Xuân Hoàn (sinh 1973) và Phan Minh Sáng (sinh năm 1981) và một gái là Phan Thị Lệ Hà.
3.1 Cụ Phan Thế Ngộ sinh năm 1957 là con trai thứ của tiên tổ Phan Thúc Kỳ (đời 12) năm 1975 học tại trường trung cấp Bản Đồ. Năm 1978 công tác tại Cục bản đồ thuộc Bộ tổng tham mưu. Từ năm 1984 – 1989 học tại chức tại trường ĐH Bách Khoa Hà Nội vẫn công tác tại Cục bản đồ. Năm 2009 nghỉ hưu với quân hàm Thượng tá, là đảng viên ĐCSVN. Trong quá trình công tác được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng nhì
* Vợ là bà Nguyễn Thị Lương sinh năm 1960 quê ở Tiền Phong - Mê Linh - Hà Nội. Công tác tại Viên Quân Y 354 Hà Nội thuộc Tổng cục hậu cần, nghỉ hưu năm 2009 với quân hàm Trung tá và cũng được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng nhì. Ông bà sinh được một trai là Phan Thế Nhân. Hiện gia đình đang sinh sống tại khu tập thể K80 của Bộ Quốc phòng thuộc phường Vĩnh Phúc - Ba Đình - Hà Nội.
3.2 Cụ Phan Thị Đức sinh năm 1948 là con gái đầu của tiên tổ Phan Thúc Kỳ (đời 12) lúc nhỏ sống với bố mẹ tại Tùng Ảnh - Đức Thọ - Hà Tĩnh, lớn lên đi học Đại học sư phạm Vinh sau làm giáo viên dậy cấp II tại thành phố Hà Tĩnh nay đã nghỉ hưu. Có chồng tên là Lê Văn Ruân quê Nam Định. Ông bà sinh được 03 trai 02 gái.
3.3 Cụ Phan Thị Hảo sinh năm 1955 là con gái thứ hai của tiên tổ Phan Thúc Kỳ (đời 12). Khi nhỏ cũng sinh sống cùng bố mẹ tại quê (Hà Tĩnh). Sau khi tốt nghiệp ĐH sư phạm Vinh vào công tác tại trường cấp III Thị trấn Tam Bình tỉnh Vĩnh Long. Lấy chồng người cùng quê Đông Thái tên là Mai Đình Sinh hiện là giám đốc trung tâm dậy nghề huyện Tam Bình. Hai cụ sinh được 02 trai và 01 gái. Cháu trai Mai Đình Sang  hiện là giáo viên dậy cấp III tại TPHCM, Mai Thanh Long và gái là Mai Thanh Anh hiện đang học ĐH tại TPHCM.

XÂY DỰNG NHÀ THỜ CHI VÀ XÂY DỰNG
NGHĨA TRANG DÒNG HỌ

1 - Năm 2002 được sự đồng thuận của cả chi II, con cháu chi II đã xây dựng nhà thờ chi II tại thôn Đào Xá - Trung Chính - Lương Tài - Bắc Ninh với sự đóng góp:
Cụ Phan Văn Duật và vợ chồng ông Phan Đình Khôi cùng con cháu: Hiến khoảng 180 m2 đất và đóng góp 15 triệu đồng
Vợ chồng ông Phan Văn Hòa và con cháu đóng góp 20 triệu động.
Vợ chồng ông Phan Đức Thái, vợ chồng ông Phan Đức Bảo, vợ chồng ông Phan Đức Sơn cùng con cháu đóng  góp 18,5 triệu đồng.
Vợ chồng cụ Phan Thế Hiếu và con cháu đóng góp 2 triệu đồng.
Vợ chồng cụ Phan Thế Ngộ và con cháu đóng góp 3 triệu đồng.
- Con cháu nội, ngoại, dâu, rể… cúng tiến và công đức hơn 11 triệu đồng.
Thời gian xây dựng nhà thờ tiến hành từ ngày 17/03/2002 đến 03/08/2002 chia làm 02 đợt.
Ngày mồng 10/04 năm Nhâm Ngọ (2002) khánh thành và tổ chức lễ tế tại nhà thờ và quyết định lấy ngày 15/02 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ Tổ.
Tổng kinh phí xây dựng hết hơn 69 triệu đồng tương đương trên 11 cây vàng.
2 - Năm 1995 được sự đồng thuận của con cháu sống tại Bắc Ninh, chi II đã xây dựng nghĩa trang dòng họ tại cánh đồng Ma Cả (thôn Đào Xá) với diện tích khoảng trên 80 m2. năm 2008 sửa sang tu bổ lại nghĩa trang. Tại đây là nơi yên nghỉ của vợ chồng tiên tổ Phan Văn Trì, vợ chồng các con trai của Người và 03 người cháu nội, một chắt nội. Kinh phí xây dựng nghĩa trang trong 02 đợt chủ yếu là do vợ chồng ông Hòa, vợ chồng ông Khôi, vợ chồng ông Thái đảm nhiệm cùng sự đóng góp của con cháu nội ngoại (đợt 01 năm 1995 hơn 5 triệu tương đương hơn 1 cây vàng, đợt 02 năm 2008 hơn 24 triệu tương đương 5 cây vàng.

THẾ HỆ THỨ SÁU (ĐỜI 14 ĐẠI TÔN)
1.1 Ông Phan Văn Hòa sinh năm 1939 là con trai trưởng của tiên tổ Phan Văn Chúc (đời 13), là tộc trưởng của chi II. Sau khi học  hết cấp II, từ 1959 - 1961 đi bộ đội nghĩa vụ, năm 1965 thì tái ngũ chiến đấu tại chiến trường Miền Nam. Sau khi Miền Nam giải phóng (30/04/1975) Ông chuyển sang lực lượng Công an đóng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990 nghỉ hưu với quân hàm thiếu tá. Là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng ba. Ông Hòa là người hiền lành chất phát, sống nội tâm.
Vợ là bà Đoàn Thị Nhã sinh năm 1939, Bà người thôn Vĩnh Trai - Trường xá - Lương Tài - Bắc Ninh. Khi về làm dâu họ Phan Bà đã gánh vác mọi công việc của nhà chồng trong khi chồng đi vắng. Đối với công việc của Họ bà là người nhiệt tình, chu đáo. Mặc dù hiện nay gia đình sống tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng gần như năm nào ông bà cũng về thăm quê hương và cùng anh em nội ngoại tộc chăm lo cho công việc Họ.
Ông bà sinh được 03 trai 03 gái: Phan Văn Hoan, Phan Văn Thọ, Phan Văn Ninh, Phan Thị Minh, Phan Thị Lộc, Phan Thị Liên.
Hiện gia đình ông bà Hòa cùng con cháu đang định cư tại TP HCM từ năm 1983. Đời sống kinh tế nói chung của ông bà và các con cháu tương đối khá giả
1.2 Bà Phan Thị Lý sinh năm 1932 là con gái đầu của tiên tổ Phan Văn Chúc (đời 13), hiện đang sinh sống tại quê có chồng tên là Lê Văn Phần cũng sinh năm 1932 người làng Đào Xuyên cùng xã. Ông Phần tham gia bộ đội chống Mỹ cứu nước từ năm 19….- 19… sau khi phục viên về lại cơ quan cũ công tác và nay đã nghỉ hưu. Ông là đảng viên ĐCSVN, được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến Hạng ba. Ông bà sinh được 02 trai 04 gái.
Con trai đầu là Lê Văn Trọng (đã mất) lấy vợ có một con gái năm nay khoảng 20 tuổi.
Con trai thứ là Lê Văn Thiện sinh năm 1957 có vợ tên là Trần Thị Huynh người thôn Đào Xá, hai cháu sinh được 02 trai 01 gái.
Con gái là Lê Thị Nhiệm, Lê Thị Thu, Lê Thị Hương, Lê Thị Huyền. Cháu Huyền lấy chồng và sinh sống tại quê (Lương Tài); cháu Lê Thị Thu vào sinh sống tại TP HCM có một con trai năm nay gần 20 tuổi. Cháu Lê Thị Nhiệm Lớn lên đi bộ đội lấy chồng người Thanh Hóa, có hai con trai. Hiện đang sinh sống tại quê chồng; cháu Hương lấy chồng người Ninh Bình có 02 con và hiện ở quê chồng.
Bổ sung tháng 11/2012: Ông Lê Văn Phần mất tháng 05 năm Nhâm Thìn (2012) thọ 81 tuổi.
2.1 Ông Phan Đình Khôi sinh năm 1951 là con trai của cụ Phan Văn Duật (đời 13). Sau khi tốt nghiệp kỹ sư ngành bưu chính viễn thông Ông nhận công tác và đã từng làm giám đốc Xí nghiệp xây lắp thuộc tổng công ty Bưu Chính Viễn Thông, nghỉ hưu năm 2008, hiện sống tại quê nhà (Đào Xá). Ông là đảng viên ĐCSVN.
Vợ là bà Nguyễn Thị Quỵnh sinh năm 1952 người cùng làng. Ông bà sinh được 03 trai 01 gái: Phan Vĩnh Phú, Phan Đình Quý, Phan Đình Vinh, Phan Thị Hoa (mất sớm).
Đời sống gia đình của ông bà tương đối khá giả.
2.2 Bà Phan Thị Sửu sinh năm 1937 là con gái đầu của cụ Phan Văn Duật (đời 13). Từ nhỏ cho đến nay sinh sống ở quê bằng nghề nông. Chồng bà là Ngô Văn Chữ sinh năm 1940 người cùng làng. Ông bà sinh được 03 trai 03 gái.
Con trai trưởng Ngô Văn Hưng sinh năm 1962 có vợ là Nguyễn Thị Tuyên. Hai cháu sinh được 04 con gái trong đó có 03 cháu đã lấy chồng và có con.
Con trai thứ hai là Ngô Văn Việt sinh năm …..có vợ tên là  …….Thị Huê. Hai cháu sinh được 02 cháu gái hiện đang đi học
Con trai thứ ba là Ngô Xuân Luân sinh năm 1973  có vợ là            Thị Chín. Hai cháu sinh được 02 trai hiện đang đi học.
Con gái đầu là Ngô Thị Thư sinh năm 1959 lấy chồng Ngô Văn Cờ. Hai cháu sinh được 01 trai 02 gái.
Con gái thứ là Ngô Thị Loan sinh năm 19… lấy chồng là …… Văn Khương  người cùng xã. Hai cháu sinh được 01 trai 02 gái, cháu trai và gái đầu đã xây dựng gia đình.
Con gái út là Ngô Thị Liên sinh năm 19…. Lấy chồng là …..Văn Đông người thôn Đào Xuyên. Hai cháu sinh được 02 gái đang đi học.
Gia đình ông bà Chữ và các con có đời sống kinh tế tương đối đầy đủ.
2.3 Bà Phan Thị Tính  sinh năm 1939 là con gái của cụ Phan Văn Duật (đời 13). Lúc nhỏ sống ở quê, sau khi xây dựng gia đình thì ra Hà Nội sinh sống từ những năm 1960. Bà làm tại công ty may Thăng Long cho đến khi nghỉ hưu (1995) hiện sống tại Hà Nội. Chồng bà tên là Hoàng Sỹ Duyên (1932 - 1993) công tác tại sở điện lực HN, nghỉ hưu năm 1992. Do mắc bệnh hiểm nghèo nên đã mất vào ngày 18 tháng 08 năm Quý Dậu (1993). Ông bà Tính Duyên là những người sống rất tình cảm, chan hòa với anh em con cháu trong  dòng họ. Ông bà sinh được 02 trai 02 gái
Trai đầu là Hoàng Sỹ Chiến (Hải) sinh năm 1960. học hết cấp III đi bộ đội sau về công tác tại sở điện lực Hà Nội, hiện là  đội phó đội quản lý điện quận Đống Đa, là đảng viên ĐCSVN. Vợ là …..Thị Lân sinh năm 1963. Hai cháu sinh được 02 trai hiện đang đi học.
Trai thứ là Hoàng Việt Anh sinh năm 1977 hiện công tác tại công ty điện lực Hà Nội, chưa xây dựng gia đình.
Gái đầu là Hoàng Thị Yến sinh năm 1964, có chồng tên là  ….. Văn Thuận. Hai cháu sinh được 01 con gái đang đi học
Gái thứ là Hoàng Thị Oanh sinh năm 1968 có chồng tên là ….. văn Hiền. Hai cháu sinh được 02 trai đang đi học.
Cuộc sống của bà Tính và các con tạm ổn.
2.4 Bà Phan Thị Tân sinh năm 1942 là con gái của cụ Phan Văn Duật (đời 13). Sinh sống tại quê nhà bằng nghề nông có chồng là Ngô Văn Tửu sinh năm 1943. Ông Tửu lớn lên học trường sư phạm ra dậy học sau đó đi bộ đội chống Mỹ tại chiến trường miền nam, sau 1975 chuyển ra quân khu I và nghỉ hưu năm 19… với quân hàm thượng tá. Là Đảng viên ĐCSVN, được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, hiện ông bà sinh sống tại quê (Đào xá). Ông là người có nhiều quan tâm đến họ Ngoại nhất là những công việc liên quan đến gia phong. Ông bà sinh được 02 trai 01 gái.
Trai đầu là Ngô Văn Tuấn sinh năm 1962, sau khi học trường trung cấp Cảnh sát vào công tác tại công an thành phố HCM sau đó tốt nghiệp ĐH CSND cho đến nay với quân hàm trung tá,vợ là       Thị Hồng. người Hải Phòng vào sinh sống tại TP HCM từ những năm 1980. Hai cháu sinh được 01 trai 01  gái. Cháu trai hiện cũng công tác tại công an TP HCM, cháu gái đang đi học
Trai thứ là Ngô Văn Mạnh sinh năm 1967 sau khi học trường trung cấp Cảnh sát về công tác tại Học viện CSND đóng tại Từ Liêm – HN (hiện đã tốt nghiệp ĐH CSND). Vợ tên là ……Thị Thủy sinh năm 1976 tốt nghiệp HV CSND về công tác tại công an TP Hải Phòng. Sau khi lấy chồng chuyển về công tác tại phòng cảnh sát môi trường công an TP HN. Hai cháu sinh được 01 trai 01 gái còn nhỏ.
Con gái là Ngô Thị Phượng sinh năm 1964 hiện đang sống với bố mẹ tại quê nhà. Do bị bệnh thiểu năng từ nhỏ nên không xây dựng gia đình.
Nhìn chung cuộc sống của ông bà Tửu - Tân và các cháu là khá đầy đủ.
2.5 Bà Phan Thị Thân sinh năm 1944 là con gái của cụ Phan Văn Duật (đời 13). Khi còn nhỏ ở với bố mẹ, lớn lên đi học sau đó làm ở phòng lương thực huyện Gia Lương. Sau năm 1975 theo chồng là Phan Văn Sỹ sinh năm 1932 về quê chồng tại TP Đà Nẵng sinh sống và công tác tại nhà máy sản suất  giầy dép Sông Hàn cho đến khi nghỉ hưu (1999). Ông Sỹ tham gia quân đội nhân dân VN khi nghỉ hưu với quân hàm trung tá. Ông bà đều là đảng viên ĐCSVN và đều được nhà nước tặng thưởng huân huy chương kháng chiến. Ông bà sinh được 03 trai.
Trai đầu là Phan Văn Bình sinh năm 1973 có vợ tên là ….……..Có 02 con trai còn nhỏ. Hiện hai cháu đang sinh sống tại TP Đà Nẵng cùng bố mẹ.
Trai thứ hai là Phan Văn Phương sinh năm 1975 Có vợ tên là ………..Hai cháu sinh được 01 trai còn nhỏ. Hiện cũng đang sống tại TP ĐN.
Trai thứ ba là Phan Văn Nam sinh năm 1977 mới xây dựng gia đình hiện đang sống cùng bố mẹ tại TP ĐN.
Cuộc sống và hoàn cảnh kinh tế của ông bà Thân - Sỹ và các cháu nhìn chung là đầy đủ.
3.1 Ông Phan Đức Thái sinh năm 1947 là con trai thứ hai của cụ Phan Kim Huy (đời 13). Lúc nhỏ ở với bố mẹ tại quê nhà. Năm 1958 ra Hà Nội ở với  bố mẹ. Sau khi học song cấp III mặc dù có giấy gọi vào trường ĐH Hàng Hải nhưng ông tình nguyện tham gia quân ngũ (1967) và chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị cho đến năm 1976 chuyển về trường Cao Cấp Nghiệp Vụ Ngân Hàng (nay là Học Viện Ngân Hàng). Từ năm 1977 đến 1980 học ĐH chuyên tu tại trường sau khi ra trường ở lại làm cán bộ sau đó là giảng viên khoa tiền tệ tín dụng cho đến năm 1989 ra công tác tại Ngân Hàng Nhà nước chi nhánh TP Hà Nội. Năm 1997 theo điều động của TW ông về công tác tại Vụ tổ chức cán bộ NHNNVN giữ chức Trưởng phòng cho đến lúc nghỉ hưu (tháng 09/2008). Ông được kết nạp Đảng năm 1973 được Đảng và Nhà nước tặng huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba, huân chương lao động hạng ba, được tăng huy hiệu “30 năm tuổi đảng”.
Vợ là Đặng Thị Hợp sinh năm 1955 người làng Đông Ngạc – Từ Liêm - Hà Nội. Lúc nhỏ ở với  bố mẹ, lớn lên học trung cấp Ngân Hàng Bắc Ninh sau đó cùng đoàn của NHNN vào tiếp quản ngành NH tại các tỉnh phía Nam (1974 - 1977), được phân công về  huyện Ngọc Hiển tỉnh Minh Hải (nay là Tỉnh Cà Mau). Từ 1977 đến 1980 theo học đại học chuyên tu tại trường cao cấp nghiệp vụ ngân hàng (nay là Học Viện Ngân Hàng). Sau khi ra trường công tác tại NH Hà Nội và công tác tại Sở Giao Dịch I NHCTVN với chức vụ Trưởng phòng. Năm 2010 bà nghỉ hưu.
Ông bà sinh được 01 trai 01 gái; Phan Việt Đức, Phan Thị Thu Phương.
Hiện nay ông bà sinh sống tại xóm 4B xã Đông Ngạc - Từ Liêm - Hà Nội.
3.2 Ông Phan Đức Bảo  sinh năm 1953 là con trai thứ ba của tiên tổ Phan Kim Huy (đời 13). Lúc nhỏ sinh sống với mẹ ở quê, năm 1960 ra sinh sống tại Hà Nội cùng gia đình. Khoảng những năm 1964, 1965 do Mỹ mở rộng đánh phá Miền Bắc nên về quê ở với người bác ruột là cụ Phan Văn Duật. Học hết cấp II ở nhà làm ruộng đến năm 1973 thì xây dựng gia đình với bà Dương Thị Hải sinh năm 1952 người thôn Ấp Ngoài hiện ông bà đang ở mảnh đất do bố mẹ để lại. Hai ông bà sinh được 02 trai 01 gái: Phan Đức Nghĩa, Phan Đức Đại, Phan Thị Nga.
Cuộc sống gia đình tương đối ổn định.
3.3 Ông Phan Đức Sơn (Hợp)  sinh năm 1961 là con trai út của tiên tổ Phan Kim Huy (đời 13). Lúc nhỏ sinh sống với bố mẹ tại Hà Nội. Những năm 1964, 1965 về sống với người bác là cụ bà Phan Thị Ba tại ấp Khám – Thuận Thành – BN. Khoảng năm 1971 ông về sống với anh trai thứ hai là ông Phan Đức Bảo tại quê (Đào Xá). Năm 1981 lấy vợ là bà Trần Thị Xinh sinh năm 1963 người cùng thôn. Ông bà sinh được 03 người con 02 trai 01 gái (mất sớm): Phan Đức Thủy, Phan Đức Trung.
So với anh em trong dòng tộc cuộc sống kinh tế của ông bà có nhiều khó khăn. Tuy nhiên một  số năm gần đây đời sống kinh tế cũng tạm ổn.
Bổ sung năm 2012: Do lâm trọng bệnh ông Phan Đức Sơn đã mất ngày 15 tháng Chạp năm Tân Mão (2011) thọ 51 tuổi.

4.1 Bà Phan Thị Chinh sinh năm 1945 là con gái duy nhất của tiên tổ Phan Văn Học (Liệt sỹ). Lúc nhỏ sống với mẹ khi lớn lên được người bác  ruột là Phan Kim Huy xin cho đi học sơ cấp ngân hàng và công tác tại ngân hàng huyện Lương Tài cho đến khi nghỉ hưu. Có chồng tên là Nguyễn Văn Bạ người làng Trừng Xá. Đi bộ đội vào Nam chiến đấu sau năm 1975 được điều động về quân khu I đến năm 1985 nghỉ hưu. Ông bà sinh được 01 trai 02 gái. Con trai là Nguyễn Văn Hùng sinh năm 1973 hiện đang là sỹ quan quân đội đóng tại Nhổn – Hà Nội có vợ và hai con gái. Con gái lớn là Nguyễn Thị Hương hiện lấy chồng và sinh sống tại huyện lỵ huyện Lương Tài cũng có 02 con. Con gái út là Nguyễn Thị Hậu sinh năm 1981 lấy chồng và sinh sống tại Quảng Ninh.
5.1 Ông Phan Văn Thực sinh năm 1937 là con trai đầu của tiên tổ Phan Thị Ba (đời 13). Được người cậu ruột là Phan Kim Huy xin vào ngành ngân hàng từ những năm 1959, 1960. Thời gian 1965 - 1971 đi bộ đội tham gia chiến đấu tại chiến trường Miền Nam, sau bị thương (thương binh 2/4) lại trở về cơ quan cũ công tác cho đến năm 1997 thì nghỉ hưu. Hiện đang sống ở khu tập thể ngân hàng Ba Đình (Phố Đội Cấn), được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba. Ông có hai người vợ.
Vợ cả là bà Phan Thị Ninh sinh năm 1937 hiện ở ấp Khám - Gia Đông - Thuận Thành - BN. Ông bà sinh được 01 trai là Phan Văn Hiện sinh năm 1958 hiện nay đang làm giám đốc AGRIBANK chi nhánh Hoàng Quốc Việt Hà Nội, có vợ là Nguyễn Thị Chính sinh năm 1958 cũng công tác tại một chi nhánh của AGRIBANK tại HN. Hai cháu sinh được 02 trai: Phan Văn Giang đã xây dựng gia đình có 01 cháu trai; Phan Văn Cương cũng đang công tác tại Hà Nội.
Vợ hai là Nguyễn Thị Nghinh sinh năm 1952 người Gia Lâm – Hà Nội công tác tại NHCT chi nhánh Ba Đình đã nghỉ hưu từ năm 2007. Ông bà có một con trai là Phan Văn Minh sinh năm 1989 hiện đang đi học.
5.2 Bà Phan Thị Thân  sinh năm 1944 là con gái của tiên tổ Phan Thị Ba (đời 13). Từ nhỏ cho đến nay sinh sống bằng nghề nông tại quê Gia Đông – Thuận Thành – Bắc Ninh. Có chồng là ông Nguyễn Văn Thiền sinh năm1942 người cùng xã. Ông Thiền tham gia bộ đội chống Mỹ tại Miền Nam bị thương (TB 2/4), xuất ngũ về địa phương có tham gia công tác tại thôn, xã. Ông bà có 03 trai 01 gái: Nguyễn Văn Dũng đã có vợ và có 02 con, Nguyễn Văn Sỹ cũng có vợ và 02 con, Nguyễn Văn Cường cũng có vợ và 02 con, Nguyễn Thị Tình lấy chồng cùng quê và cũng sinh được 02 con
5.3 Bà Phan Thị Tuyết sinh năm 1947 là con gái của tiên tổ Phan Thị Ba (đời 13). ). Từ nhỏ cho đến nay sinh sống bằng nghề nông tại quê Gia Đông – Thuận Thành – Bắc Ninh. Có chồng tên là Nguyễn Văn Nhỡ người cùng xã nhưng đã mất. Ông bà sinh được 01 trai 02 gái:Nguyễn Văn Tuân sinh năm 1984 có vợ và 02 con, Nguyễn Thị Mai có chồng và 02 con. Các cháu  đều sống ở quê với mẹ. Nguyễn Thị Oanh sinh năm 1980 lấy chồng và sinh được 02 con hiện đang sinh sống ở Hà Nội.
6.1 Bà Đoàn Thị Hiền sinh năm  1950 là con gái lớn của tiên tổ Phan Thị Thảo (đời 13). Có chồng là Trần Văn Điểm sinh năm 1949 người cung làng (Đào Xá). Ông Điểm tham gia kháng chiến chống Mỹ sau bị thương (TB) xuất ngũ về công tác, sản xuất tại địa phương. Ông bà sinh được 02 trai 03 gái; Trần Văn Điệp sinh năm 1975 đã có vợ và một con gái, Trần Văn Hùng sinh năm 1977 lấy vợ và có 02 con, Trần Thị Hằng lấy chồng và có 03 con gái, Trần Thị Huyền lấy chồng người cùng làng có 01 con trai, Trần Thị Hiệp sinh năm 1986 lấy chồng và có 01 con trai.
6.2 Bà Đoàn Thị Hồng  sinh năm 1953 là con gái thứ của tiên tổ Phan Thị Thảo (đời 13). Do mẹ mất sớm được người bác ruột là tiên tổ Phan Kim Huy nhận làm con nuôi nên theo Bác ra Hà Nội từ những năm 1958, 1959. Học hết cấp III và trung cấp, đại học Ngân Hàng được điều động về công tác tại ngân hàng công thương Đống Đa, Ngân hàng công thương Thanh Xuân. Năm 2008 nghỉ hưu với chức vụ phó giám đốc chi nhánh. Chồng là Chu Hoàng Nam sinh năm 1954 người tỉnh Hưng Yên hiện đang công tác tại Bộ Văn Hóa. Ông bà sinh được 02 trai là Chu Đức Chiến sinh năm 1977 có vợ và 01 con gái, Chu Hoàng Cường sinh năm 1980 có vợ và 01 con  gái.
7.1 Ông Phan Xuân Hoàn  sinh năm 1973 là con trai trưởng của cụ Phan Xuân Hiếu (đời 13) hiện là sỹ quan trong lực lượng công an nhân dân tỉnh Quảng Bình. Vợ là Lê Thị Phượng sinh năm 1976, giáo viên và một con gái tên là Phan Thị Phương Ngân sinh năm 2002.
7.2 Ông Phan Minh Sáng sinh năm 1981 là con trai thứ của cụ Phan Xuân Hiếu (đời 13) hiện công tác tại ngành thể dục thể thao Quảng Bình. Vợ là Nguyễn Thị Hương sinh năm 1979, có 01 con trai tên là Phan Minh Đạt sinh năm 2009.
7.3 Bà Phan Thị Lệ Hà  sinh năm 1975 là con gái của cụ Phan Xuân Hiếu (đời 13) hiện là giáo viên cấp II ở TP Đồng Hới đã lấy chồng. Chồng tên là Trần Văn Quang sinh năm 1972 hiện đang làm ăn ở nước ngoài, có 02 con gái.
8. Ông Phan Thế Nhân  sinh năm 1992 là con trai của cụ Phan Thế Ngộ (đời 13) hiện đang là học sinh, sống cùng bố mẹ tại Hà Nội.

THẾ HỆ THỨ BẨY ( ĐỜI 15 ĐẠI TÔN)

1.1                     Phan Văn Hoan sinh năm 1964 là con trai của ông Phan Văn Hòa (đời 14), hiện đang công tác tại ngành công an TP HCM có vợ là …… Thị Hạnh quê Hà Tây sinh năm 1974 hiện đang công tác tại ngành bưu chính viễn thông TP HCM. Hai cháu sinh được 02 trai còn nhỏ.
1.2                      Phan Văn Thọ  sinh năm 1976 là con trai của ông Phan Văn Hòa (đời 14), hiện đang sống cùng bố mẹ tại TP HCM. Vợ tên là …….. Thị Nhung (Mười) người thôn Kim Đào – Tân Lãng – Lương Tài – BN. Hai cháu sinh được 01 trai 01 gái còn nhỏ.
1.3                     Phan Văn Ninh sinh năm 1978 là con trai út của ông Phan Văn Hòa (đời 14), hiện đang  sinh sống và công tác tại TP HCM.
1.4                     Phan Thị Minh  sinh năm 1959 là con gái đầu của ông Phan Văn Hòa (đời 14), hiện đang sinh sống và công tác tại TP HCM.Có chồng tên là Trần Văn Văn (Hòa) người cùng quê Đào Xá. Hai cháu sinh được 01 trai là Trần Văn Thủy sinh năm 1983 01 gái là Trần Thị ….. sinh năm 1979.
1.5                     Phan Thị Lộc  sinh năm  1962 là con gái thứ của ông Phan Văn Hòa (đời 14), hiện đang sinh sống và công tác tại TP HCM có chồng là ….. Văn Nguyên sinh năm 1960 công tác tại ngành công an Bình Thuận. Hai cháu có 01 trai 01 gái.
1.6                     Phan Thị Liên sinh năm 1968 là con gái thứ của ông Phan Văn Hòa (đời 14), hiện đang sinh sống và công tác tại TP HCM có chồng là …..Văn Na Hiện đang công tác tại ngành công an TP HCM. Hai cháu sinh được 02 gái
2.1        Phan Vĩnh Phú sinh ngày 08 tháng 11 năm 1973 là con trai trưởng của ông Phan Đình Khôi (Đời 14), hiện công tác tại Hà Nội, vợ là Nguyễn Thị Lan sinh ngày 05 tháng 11 năm 1974 (quê quán: Trừng Xá, Trừng Xá, Lương Tài, Bắc Ninh) hiện đang công tác tại bệnh viện huyện Lương Tài. Hai cháu sinh được 01 trai 01 gái. Cháu gái lớn Phan Cẩm Tú sinh vào hồi 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 02 năm 1997 (theo âm lịch là ngày 07 tháng giêng năm Đinh sửu  giờ: Bính thân - Ngày: bính tuất - Tháng: nhâm dần - Năm: đinh sửu) hiện đang học tại THPT Lương Tài 1. Cháu trai thứ hai Phan Ngọc Hiển sinh vào hồi 14 giờ 18 phút ngày 28 tháng 01 năm 2000 (Theo âm lịch là ngày 28 tháng chạp năm Kỷ mão giờ: Qúy mùi - Ngày: ất dậu -Tháng: ất sửu - Năm: kỷ mão) hiện đang học tại trường THCS Hàn Thuyên Lương Tài.
2.2          Phan Đình Quý sinh năm 1977 là con trai thứ hai của ông Phan Đình Khôi (Đời 14), hiện công tác tại Hà Nội, vợ là  Phí Thị Liên sinh năm 1979. Hai cháu sinh được 02 trai.
2.3         Phan Đình Vinh sinh năm 1981 là con trai thứ ba của ông Phan Đình Khôi (Đời 14), hiện công tác tại Hà Nội, vợ là Đinh Thị Thu Hương sinh năm 1980. Hai cháu sinh được 02 trai.
3.1        Phan Việt Đức sinh năm 1980 là con trai của ông Phan Đức Thái (đời 14), hiện sinh sống và công tác tại Hà Nội.
3.2         Phan Thị Thu Phương sinh năm 1982 là con gái của ông Phan Đức Thái (đời 14), hiện sinh sống và công tác tại Hà Nội. Có chồng là Phan Đức Toàn sinh năm 1982. Hai cháu sinh được 01 trai
4.1        Phan Đức Nghĩa sinh năm 1976 là con trai trưởng của ông Phan Đức Bảo (đời 14), hiện sinh sống và công tác tại Hà Nội. Có vợ là Nguyễn Thị Quyên sinh năm 1979. Hai cháu sinh đươc 01 trai, 01 gái.
4.2         Phan Đức Đại sinh năm 1986 là con trai út của ông Phan Đức Bảo (đời 14), hiện sinh sống và công tác tại Hà Nội. Cháu mới xây dựng gia đình năm 2012. Vợ cháu tên là Vũ Hồng Liên.
4.3         Phan Thị Nga sinh năm 1974 là con gái của ông Phan Đức Bảo (đời 14), hiện sinh sống tại quê chồng xã Phú Hòa – Lương Tài - BN. Chồng là Trần Văn Lập sinh năm 1974. hai cháu sinh được 01 trai 01 gái.
5.1        Phan Đức Thủy sinh năm 1983 là con trai trưởng của ông Phan Đức Sơn (đời 14), hiện sinh sống và công tác tại Hà Nội, đã xây dựng gia đình năm 2010, vợ cháu tên là Năm. Hai cháu sinh được 01 trai 01 gái.
5.2         Phan Đức Trung sinh năm 1985 là con trai út của ông Phan Đức Sơn (đời 14), hiện đang làm ăn tại Hà Nội. Lấy vợ năm 2011, vợ cháu tên là Xuân. Hai cháu sinh được 01 gái.
 Thay cho lêi kÕt
Tôi về hưu tháng 9/2008. Sau khi sưu tập tư liệu, tôi biên tập lần đầu cuốn phả này vào cuối năm 2009. Bản viết này tôi đã gửi cho cụ Phan Xuân Hiếu, Phan Thế Ngộ và các ông Phan Văn Hòa, Phan Đình Khôi với mong muốn được các cụ các ông cho thêm ý kiến. tôi vẫn huy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến của các cụ các ông để quyển gia phả này đầu đủ hơn. Nhưng tôi vẫn quyết định tu chỉnh lại cuốn phả trong suốt những năm 2010, 2011, 2012 nhằm bổ sung các sự kiện trong thời gian đó như người mất, người lấy vợ, người lấy chồng, người sinh con….. nhưng cũng không thể cập nhật hết được mong mọi người lượng thứ.

Tôi mong muốn và đặt niềm tin ở thế hệ sau này sẽ tiếp tục viết tiếp về dòng họ Phan hiển hách của mình như một sự tri ân các bậc tiền nhân.
NHÀ THỜ HỌ - GIA PHẢ DÒNG HỌ - MỒ MẢ TỔ TIÊN là 03 thứ rất cần để thế hệ sau suy ngẫm và gìn giữ nếu muốn dòng họ mình trường tồn vĩnh cửu.

         Tháng 12 năm 2012
    Viết tại nhà riêng 162 phố Kẻ Vẽ, xã Đông Ngạc,  Huyện Từ Liêm, TP Hà Nội

           Phan Đức Thái

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét