THẾ PHẢ LOẠI BIÊN
Của dòng họ Phan ở thôn Đông Thái, xã Yên Đồng.
Nay thuộc xã Tùng ảnh - Đức Thọ - Hà Tĩnh
(Do Phó bảng Phan Văn Nhã viết năm 1829, 1847, 1864)
Bản dịch: Lê Văn Duyệt (tự Tân Việt) dịch tháng 05/1997
ĐỜI THỨ NHẤT
– Thuỷ tổ Phan Dung: là con trai trưởng của nhà họ Phan, mất ngày mồng 1 tháng Giêng, mộ nguyên táng ở Dạ thôn, lúc phục hồn, táng ở xứ Đội Ngọn. Vợ của Người là con gái cả của một nhà họ Phan (khác), (tên huý là Thị Minh). Người mất ngày 16 tháng 06, lúc phục hồn, cũng đem hợp táng ở xứ Đội Ngọn, sinh được 1 trai là Phan Tiết.
– Tiên tổ Phan Tiết: là con trai của cụ thuỷ tổ Phan Dung (đời 01). Mất ngày 16 tháng 09. Vợ của Người, là con gái thứ nhất của nhà họ Hoàng (tên huý là Thị Vân), Mất ngày 16 tháng 06. Hai ngài sinh được 2 trai 3 gái, là: Phan Ni, Phan Sự, Thị Uyên, Thị Bi, Thị Cố.
ĐỜI THỨ BA
1. Tiên tổ Phan Ni là con trai đầu, do Phan Tiết (đời 02) sinh ra, mất ngày 16 tháng 03. Vợ của Người là con gái đầu của nhà họ Trần (tên huý là Thị La), mất ngày mồng 4 tháng 07. Hai người sinh được 4 trai 2 gái là: Phan Hoạch, Phan Mật, Phan Mao, Phan Khoan, Thị Thanh, Thị Mận.
2. Tiên tổ Phan Sự là con trai thứ hai của Phan Tiết (đời 02) (không có con nối dõi).
3. Tiên tổ Thị Uyên, Thị Bi, Thị Cố, đều không có nguồn thông tin nào truyền lại.
ĐỜI THỨ TƯ
1. Tiên tổ Phan Hoạch là con trai trưởng của Phan Ni (đời 03). Vợ của Người là Mụ Hoạch, toàn sinh con gái.
2.Tiên tổ Phan Mật là con trai thứ hai của Phan Ni (đời 03). (Hình như tên tục gọi là Ông Đoàn), hưởng thọ 72 tuổi, mộ cải táng tại xứ Trang Thường. Vợ của Người là con gái thứ hai của nhà họ Phạm (tên huý là Thị Sừng), mất ngày 27 tháng 06, cũng thọ 72 tuổi, mộ táng ở bên trái về phía Bắc ruộng của Phá Liễn. Hai người sinh được 6 trai 3 gái là: Phan Nha, Phan Tuân, Phan Lớn, Phan Uy, Phan Lễ, Phan Đầu, Thị Lan tục gọi là Mụ Ni, Thị Chế, Thị Tại.
3. Tiên tổ Phan Mao: là con trai thứ 3 của Phan Ni (đời 03), mất ngày mồng 8 tháng mười một, mộ táng ở xứ Trang Quan, toạ Quý hướng Đinh (đầu gối hướng Bắc – Đông bắc, nhìn về hướng Nam – Tây nam). Người là tiên tổ nhiều đời sinh ra chi ta. Từ đường bắt đầu phụng thờ từ Người trở đi.
+ Vợ cả là con gái đầu của nhà họ Phan (tên huý là Thị Hợp), mất ngày 30 tháng ba, cũng hợp táng với tiên tổ Phan Mao ở xứ Trang Quan. Hai người sinh được 2 trai 4 gái là Phan ý, Phan Y, Thị Thấy, Thị Chèo, Thị Chống, Thị Lân. Năm ất Dậu, tất cả các tiên tổ trên đây đều được đưa về thờ ở trong từ đường và đem thần chủ đặt ở trước mộ, nhìn về phía nhà thờ đại tôn, ghi tên để cùng được phụ hưởng tế tự.
4. Tiên tổ Phan Khoan, là con trai thứ tư của Phan Ni (đời 03). (không có con nối dõi).
5. Tiên tổ Thị Thanh, Thị Mận: chưa rõ sự trạng.
ĐỜI THỨ NĂM
1.1 Tiên tổ Phan Nha là con trưởng của tiên tổ Phan Mật (đời 04), đã sớm theo nghiệp binh nhung, người ta gọi cụ là Hoan Tài Bá. Vợ là con gái nhà họ Võ trong thôn ta. Hai người không có con, (tục gọi là Ông Hoan, Mụ (bà) Hoan). Sau tiên tổ Phan Nha lại lấy con gái nhà họ Mai, sinh được 1 gái là Thị Dựng, không có con trai nối dõi.
1.2 Tiên tổ Phan Đình Tuân: là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Mật (đời 04).Vốn là người có chút văn học, dự thi Hương đỗ được ba trường sinh được 1 trai, tục gọi là Ông Chanh; 1 gái là Thị Hằng, chưa rõ gả cho người họ nào.
1.3 Tiên tổ Phan Lớn là con trai thứ ba của tiên tổ Phan Mật (đời 04). Người ta gọi là Ông Tục; sinh được 4 trai là Phan Điện, Phan Thản, Phan Bưu, Phan Quát; và 1 gái là Mụ Doanh, chưa rõ gả cho người họ nào.
1.4 Tiên tổ Phan Uy là con trai thứ tư của tiên tổ Phan Mật (đời 04), tục gọi là Ông Từ Tư (giỗ ngày 22 tháng Năm), Vợ cả là Nhụ nhân(1) Mai Thị Hạnh (giỗ ngày17 tháng Hai). Hai người không có con, nên lấy con trai của người anh ruột Phan Lớn tên là Phan Bưu, tức Xã nhiêu và con gái của người cháu ruột Phan Bưu là Thị Vân cùng con trai của người em ruột Phan Lễ là Phan Thốc để làm con nuôi. Người cả đời giàu có, ruộng vườn nhà cửa kể đến hàng dãy. Người thường muốn dùng tiền của để mở rộng thanh thế. Bạn bè đồng liêu phần nhiều được Người khoản đãi hậu hĩ. Người lại có một người em nổi tiếng là Giám sinh Bác văn đường Trọng Giai, vì thế khi còn sống, Người được người đời rất kính trọng. Người lại hay bỏ tiền bạc của nhà ra cung tiến để xây dựng thượng điện, miếu vũ cho ngôi đình của 3 thôn ta, và xây dựng ngôi nhà thờ đại tôn của họ ta. Gỗ lạt toàn dùng thứ chắc chắn, đến nay vẫn còn nguyên. Người lại lo tính chuyện lâu dài cho bản thân như xây cho mình một ngôi sinh từ, đem ruộng đất ở một số nơi giao cho các hiệu sinh, tư văn thôn ta coi giữ, luân phiên canh tác, để hàng năm cung cấp cho hai cái giỗ của vợ chồng Người, khiến trăm năm được hưởng cúng tế, hương khói không dứt. Thế cũng có thể gọi là giỏi dùng tiền của vậy, cho nên ghi lại để đời sau biết.
1.5 Tiên tổ Phan Lễ: (thờ ở nhà thờ họ Lê cũ), là con trai thứ 5 của tiên tổ Phan Mật (đời 04), tục gọi là Ông từ Thuyên; sinh được 4 trai là Phan Trịch, Phan Thốc (làm con nuôi ông Từ Tư), Phan Chúc, Phan Để (tục gọi là anh Tăng), và 2 gái là Thị Huân, Thị Chức. Năm Đinh Hợi, Người được đưa vào phụ hưởng tế tự ở nhà thờ đại tôn. Vợ của Người là người họ nào, không thấy ghi chép.
1.6 Tiên tổ Phan Đầu (tức Phan Trọng Giai) là Giám sinh Bác văn đường trường Quốc tử giám dưới triều Lê xưa. là con trai thứ sáu của tiên tổ Phan Mật (đời 04). Ban đầu Người tên là Doãn Cung, đi thi Hương đỗ được 3 trường. Khoa Canh Tý, Người đổi tên là Trọng Giai, khoa đó Người đỗ 4 trường lúc đó 27 tuổi, Người sinh năm Bính Tuất (1634), Người là bác của ông tổ Giám sinh Duy Xưởng. Vốn tính ngay thẳng, học vấn uyên bác, giữ đạo an nhàn, không cầu được nổi tiếng, đúng là bậc mũ cao trong rừng Nho. Ngày ngày Người lấy việc dạy trẻ làm vui. Học trò đến học rất đông, trở nên nổi tiếng cũng rất nhiều. Người tự lấy hiệu là Thái Nhiên tiên sinh. Sau khi Người mất, các học trò đưa vào thờ ở Văn miếu của xã ta. Vợ của Người là con gái họ Phạm. Hai Người sinh toàn con gái, trưởng là Thị Tường, thứ là Thị Bích, Thị Miên. Người được thờ ở trước nhà trại chính của con trai bà Thị Bích, đến năm Đinh Hợi, con cháu đưa linh vị hai Người vào từ đường đại tôn, ghi tên để được phụ hưởng tế tự.
1.7 Tiên tổ Thị Lan, tục gọi là Mụ Ni. sinh được 1 gái là Mụ Tổ.
1.8 Tiên tổ Thị Chế, Thị Tại không thấy ghi chép gì.
Thị Lan, Thị Chế, Thị Tại đều là con gái của Phan Mật (đời 04).
2.1 Tiên tổ Phan Ý (tự là Đình Liên), là con trai trưởng của tiên tổ Phan Mao (đời 04), sinh vào giờ Thìn ngày mồng 10 tháng Giêng năm Bính Thìn (1676), thọ 37 tuổi, mất vào ngày mồng 1 tháng Tư, mộ táng ở ruộng xứ Cây Măng.
* Vợ cả của Người là con gái thứ nhất nhà họ Võ, (tên huý là Thị Mao). Thọ 31 tuổi, mất ngày 25 tháng Tư, mộ táng ở xứ Trang Quan. Hai Người sinh được 4 trai là Phan Thưởng, Phan Mẫn, Phan Trung, Phan Tá, và 1 gái là Thị Nghệ.
* Vợ lẽ của Phan Mao là Nhụ nhân Thị Tránh là con gái thứ hai của họ Bùi, là người giản dị, nhân từ, sinh thời nghèo khó, khổ cực. Hai người sinh được 1 trai là Phan Cấn, 1 gái là Thị Niệt. Khi con còn thơ ấu, Người đột nhiên bị bệnh rồi qua đời, mất ngày 23 tháng Mười một. Sau khi Người mất, trong nhà đơn chiếc bần hàn, không có tiền để lo việc chôn cất. Người trong họ phải đem cụ mai táng tại đất công của họ ta ở xứ Bà Mấn, không câu nệ phương hướng, may mà trời cho được vào chỗ đất tốt. Sau khi chôn được vài năm, không cải táng, mà thành ngôi mộ tổ. Nhận thấy mộ toạ Dậu hướng Mão (đầu gối hướng Tây, nhìn về hướng Đông). Đến khi con trai là Phan Cấn trưởng thành, sống bằng nghề buôn bán, gia tư khấm khá, con cháu nhờ đó làm ăn phát đạt, ngày một trở nên phồn thịnh. Về sau thành một nhánh trong các chi của dòng họ.
2.2 Tiên tổ Phan Y là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Mao (đời 04). Người lấy vợ, sinh được 3 trai 1 gái. Con trai trưởng tục gọi là Xã Sương, con trai thứ hai gọi là Tô Tài bá, con trai thứ ba tên là Phan Nghĩa, đều không có con cái. Con gái là Thị Thát, tục gọi là Mụ Kệ, là bà ngoại của Thị Thơm.
2.3 Tiên tổ Phan Thị Thấy là chánh thất của nhà họ Kiều, Cụ sinh ra ông cố Tình, ông huyện Vĩnh Khang, ông Thạnh, là bà nội của Kiều Năng Du người thôn ta. Hiện nay con cháu đông đúc thịnh vượng, việc cúng giỗ cụ ở nhà thờ do người con gái của ông cố Tinh tên là Mụ Triềng đảm nhiệm.
2.4 Tiên tổ Thị Chèo, Thị Chống, Thị Lân con của Phan Mao (đời 04), đều mất sớm, an táng ở gần Bãi Đồng xứ Đội Ngọn.
ĐỜI THỨ SÁU
1.1 Tiên tổ Phan Chanh là con trai đầu của Phan Đình Tuân (đời 05), có lập gia đình nhưng không có con cái.
1.2 Tiên tổ Phan Thị Hàng là con của tiên tổ Phan Đình Tuấn (đời 05), có lập gia đình nhưng không có con cái
2.1 Tiên tổ Phan Điện, Phan Thản, Phan Bưu, Phan Quát đều là con trai của tiên tổ đời thứ năm Phan Lớn (đời 05). Phan Điện tục gọi là Anh Tục, sinh ra Tục, Da. Phan Thản tục gọi là Bác Hai, có vợ nhưng không có con. Phan Bưu tục gọi là Xã Nhiêu, vợ là Thị Truyền, sinh được 1 con gái là Thị Vân, tức là bà cố Giảng. Phan Quát hình như có tên tục là Anh Bồ, sinh được 1 trai là Phan Doanh và 3 gái là Thị Phủ, Thị Bích, Thị Thị, đều tuyệt tự.
2.2 Tiên tổ Mụ Doanh, tức là bà ngoại của sinh đồ Kiều Năng Mai ở thôn ta. Cụ còn gọi là bà cố Diên, cũng là con gái của tiên tổ Phan Lớn (đời 05).
3. Tiên tổ Phan Trịch, Phan Thốc, Phan Chúc, Phan Để đều là con trai của tiên tổ Phan Lễ (đời 05). Phan Trịch tên tự là Khắc Nhượng, tức ông Sắt, lấy người thôn Trinh Nguyên thuộc đình ta, sinh được 2 trai là Phan Cối, Phan Cắng đều mất sớm, và 2 gái là Thị Tiếng, Thị Dảu, không có tin tức gì truyền lại. Phan Thốc tức là Ông Đỉnh, lấy Bùi Thị Khuyến người thôn nhà, sinh được 2 trai, trưởng là Phan Đỉnh mất sớm, thứ là Phan
An tên tự là Viết Quý, tục gọi là ông Chiêm. Phan Chúc khá hiểu biết về văn tự, 18 tuổi đã quen đi tha phương. Phan Để tục gọi là Anh Tăng, không có con cái.
- Tiên tổ đời thứ sáu: Thị Huân, Thị Chức, cũng là con gái của tiên tổ Phan Lễ, đều không có con nối dõi.
4. Tiên tổ Thị Tường, Thị Bích, Thị Miên, là các con gái của tiên tổ Phan Đẩu (đời 05). Thị Tường được gả cho sinh đồ Mai Doãn Dự người trong thôn, sinh ra Mai Phương Phái, về sau tuyệt tự. Thị Bích được gả cho Chính Khuê người trong thôn, sinh ra Tiền Chính Trại, tức ông Vưu Ngoại. Thị Miên gọi là Mụ Khương, được gả cho Xã Lâm người thôn ta, sinh ra Ông Cảnh, tức Phạm Nhuận.
5.1 Tiên tổ (chi ta) Phan Thưởng (tự Duy Gia) là Hiệu sinh, là con trai trưởng của tiên tổ Phan ý (đời 05).do bà Vợ cả họ Võ sinh ra; từ nhỏ đã theo đòi nghiệp học, dự khoa thi Hương năm Quý Mão (1723) đỗ Sinh đồ, sinh được 1 trai là Phan Tráng, tên tự là Duy Tư, là học sinh, sau không có người nối dõi ; 2 gái là Thị Thịnh (?), Thị Điềm, không có thông tin nào truyền lại.
5.2 Tiên tổ (chi ta) Phan Mẫn (Lão nhiêu), là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Đình Liên (Phan ý, đời 05) và Vợ cả họ Võ sinh ra. Vợ là Nhụ nhân, con gái thứ nhất nhà họ Hoàng (tên huý là Thị Kiền), sinh được 1 trai là Phan Quýnh, tên tự là Thiên Niên, và 4 gái là Thị Quái, Thị Phàn, Thị Ân, Thị Phương. (Thị Ân là vợ của Cai Lãnh).
5.3 Tiên tổ (chi ta) tên gọi Phan Trung là con trai thứ ba của tiên tổ Phan Đình Liên (đời 05) và bà họ Võ sinh ra. Cụ mất sớm.
5.4 Tiên tổ (chi ta) Phan Tá (Duy Mậu) Là hiệu sinh, là con trai thứ tư của tiên tổ Phan Đình Liên (đời 05) và họ Võ sinh ra; từ tuổi nhỏ đã sớm theo học Nho, thi đỗ Sinh đồ khoa Bính Ngọ(1726). Sinh được 1 gái là Phan Thị Lạn, gả cho Lão Bình người xã Việt An.(Hình như là chi Mụ Ngọn, sinh ra anh em ông Hoành).
5.5 Tiên tổ (chi ta) Phan Thị Nghệ, không có con, cũng là con của tiên tổ Phan Đình Liên (đời 05) và bà vợ họ Võ sinh ra.
5.6 Tiên tổ (chi ta) Phan Duy Năng là Kỳ Lão trong làng, Xã trưởng kiêm Xã chính, tên tự là Khắc Nhất Phan phủ quân (tên huý là Yển, lại huý là Cấn). Người do bà vợ lẽ nhà họ Bùi và tiên tổ Phan Đình Liên (đời 05) sinh ra; là người thuần nhất, nhân hậu, ôn hoà, chất phác, không làm những việc màu mè hoa mĩ; tuổi nhỏ đã sớm mồ côi, nghèo khổ, phải lấy việc buôn bán làm nghề, đến khi lớn lên, cơ nghiệp dần được gây dựng, gia sản trở nên sung túc. Người sinh được 5 trai là Phan Trứ, Phan Ô, Phan Lạm, Phan Đang, Phan Hải ; 2 gái là Thị Rau, Thị Huyên. Các con của Người phần nhiều đều trở thành những người có phẩm chất tốt đẹp, tuy lấy cần kiệm để gây dựng nghiệp nhà nhưng lại một niềm trọng đạo, không so đo với nhau, mọi người đều nể phục tài đức của họ. Người thường khoản đãi chu đáo và hậu hĩ đối với các vị thân sĩ trong ấp, chi phí cần dùng chẳng tiếc cái gì. Điều này khiến cho con trai, con rể Người đều hăng hái noi theo con đường khoa cử, với hy vọng được thành đạt. Trong số đó lại có người con trai trưởng là Giám sinh Phan Quý công, người con rể khá tinh thông là Phạm Lệnh công, đều sớm tối thuận theo ý cha mẹ, xem đây là cơ hội lớn, thế gia đại tộc nhờ đó mà thịnh vượng. Nguyên anh em cùng cha khác mẹ của cụ có tất cả bốn người, trong đó có người toàn sinh con gái, hoặc sớm héo tàn, không người thừa kế. Người tuy là con bà kế thất nhưng sinh được rất nhiều con trai con gái, nên việc thờ cúng của dòng họ chỉ có gia đình Người đứng ra gánh vác. Hiện nay, các việc tế tự ở nhà thờ, đều do dòng nhánh của Người chủ trì. Người sinh năm Đinh Mão(1687), thọ 72 tuổi, mất ngày 16 tháng Chín năm Mậu Dần (1758), mộ táng ở xứ Ma Cát thôn An Nội. Mộ đặt toạ Đinh hướng Quý (đầu gối hướng Nam Tây Nam – mặt hướng về Bắc Đông Bắc), phân kim Canh Tý – Canh Ngọ. Giờ Thìn ngày 30 tháng Giêng năm Mậu Dần, thày địa lý ở xã Hà Dương huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá đổi đặt toạ Ngọ hướng Tý (đầu gối hướng Nam – mặt hướng về Bắc), phân kim vẫn là Canh Tý – Canh Ngọ như cũ. Phán đoán rằng : mạch từ Đinh chuyển sang Canh, Canh lại chuyển sang Đinh mà vào tai, hình như chim phượng bay xuống hồ, huyệt ở trên trán. Táng vào đó thì 15 năm sau sẽ phát phúc, đời đời đỗ đạt, có công danh.
* Vợ cả của Phan Duy Năng, là con gái thứ tư nhà họ Võ, một vị kỳ lão thôn Trinh Nguyên đình ta hiệu là Từ Thục nhụ nhân (tên huý là Thị Uý). Người sinh năm Bính Thân (1716), mất ngày 27 tháng Giêng năm Đinh Tị (1797), mộ nguyên táng ở xứ Bà Mấn, đến năm Mậu Tý cải táng ở xứ Đội Mộ, đổi đặt toạ Dậu hướng Mão (đầu gối hướng Tây – mặt nhìn về Đông), may được chỗ đất tốt nên trở thành mộ tổ.
5.7 Tiên tổ (chi ta) Phan Thị Niệt, do kế thất họ Bùi và tiên tổ Phan Đình Liên (đời 05) sinh ra. Người mất sớm.
ĐỜI THỨ BẢY
Phần nói về dòng họ Đại tôn
1. Tiên tổ dòng nhà bác Phan Tục, Phan Da là các con trai của tiên tổ Phan Điện (đời 06). Không thấy ghi chép gì.
2. Tiên tổ Phan Thị Vân tức là bà cố Giảng, là con gái của tiên tổ Phan Bưu (đời 06).
3. Tiên tổ dòng nhà bác Phan Doanh và Phan Thị Phủ, Phan Thị Bích, Phan Thị Tế đều do tiên tổ Phan Quát (đời 06) sinh ra, đều tuyệt tự.
4. Tiên tổ dòng nhà bác Phan Cối, Phan Cắng là con trai của tiên tổ Phan Trịch (đời 06), đều mất sớm. Phan Thị Tiếng, Phan Thị Dậu không có thông tin nào truyền lại.
5. Tiên tổ dòng nhà bác Phan Đỉnh là con trai thứ nhất, mất sớm. Dòng nhà bác huý là An, tự là Viết Quý, tục gọi Ông Chiêm, con trai thứ hai của tiên tổ Phan Thốc (đời 06).Viết Quý sinh ra Phan Viết Tập.
Phần nói về dòng họ Tiểu tôn
1.1 Tiên tổ Phan Tráng tự là Duy Tư, là con trai của tiên tổ Phan Duy Gia (đời 06), không có người nối dõi.
1.2 Tiên tổ Kỵ cô (huý là ? ), lấy ông Bùi Đình Thực ở nhà thờ thôn ta, tục gọi là ông Từ Khiếu, sinh ra con gái là Bùi Thị Thuế, tức là bà Sách; và mụ Chiêm Tiền, mụ Nhiêu Suyền. Tiên tổ (huý là Điềm), lấy ông Yến người họ Mai ở thôn An Nội, sinh ra ông Thìn. Ông Thìn sinh ra Mai Tự Tỉnh. Các kỵ cô cũng đều là con gái của tiên tổ Phan Duy Gia (đời 06).
2. Tiên tổ Phan Quýnh dòng nhà bác: làm xã trưởng (tự là Thiên Niên), là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Mẫn (đời 06) lấy Phan Thị Xuy người thôn An Trinh, sinh được 3 trai, là Phan Chiểu, Phan Cự, Phan Thụ (tức anh em Phan Duy Thân, Phan Duy Hà); 2 gái là Thị Kiêu, Thị Tình. Chỉ còn 1 người là Thị Tình, tức nay là bà Việt, gả cho Vũ Bái người thôn ta.
3. Tiên tổ Phan Thị Lạn, tục gọi là Mụ Ngọn, là con gái của tiên tổ Phan Duy Mậu (đời 06) lấy Lão Bình người xã Việt An, sinh được 2 trai là ông Nhiễu, ông Hoành và 3 gái là mụ Kiệm, mụ Suất, mụ Lân.
4.1 Tiên tổ Phan Trứ - Phan Quý Công là Quốc tử sinh trường Quốc tử giám, (tự là Duy Xưởng), là con trai trưởng của của tiên tổ Phan Duy Năng (đời 06). vốn là người hào phóng, không thích làm những việc bị gò ép bó buộc, chỉ thích rượu chè cờ bạc, thuần thục đến thành nếp. Cho đến khi trưởng thành, chí tự lập mới nổi lên mạnh mẽ, dốc sức vào việc học hành, sớm tối theo đòi nghiệp học. Thân dựa đầu cột, ngồi trên ghế dài, ba năm đèn lửa không dứt, việc lớn việc nhỏ trong nhà không một lần hỏi đến. Về sau, trên tấm gỗ mặt ghế còn thấy rõ hình dấu vết của Người in vào, sự mài dũa công phu của Người là như thế. 23 tuổi Người thi đỗ ba trường. 31 tuổi thi Hương khoa Tân Mão đỗ bốn trường, lúc đợi xướng danh ở cửa trường, vừa nghe thấy tên mình trong số người đỗ, Người đã đi thẳng lên nhảy qua hàng dây ngăn cách, chẳng ngờ lại phạm vào tội kỵ huý, hành vi đó rất sơ suất như thế đó. Người mất ngày 19 tháng Sáu, hưởng thọ mới 36 tuổi, mộ táng ở xứ Trang Không.
* Vợ cả là con gái thứ nhất nhà họ Kiều (giỗ ngày 12 tháng Tư), tên huý là Vận, mộ cũng hợp táng ở xứ ấy. Hai người sinh được 2 trai là Phan Đoá, Phan Kiềm, và 1 gái là Thị Khiên. Về sau vào năm Đinh Hợi họ ta đưa linh vị 2 kỵ vào nhà thờ đại tôn, ghi tên để được phụ hưởng cúng tế. Mùa đông năm Tự Đức Bính Dần (1866), con cháu họp bàn việc tế tự, vẫn thờ ảnh ở nhà thờ, để cùng tồn tại ngang với chính phái trong chi, tự điền vẫn được để nguyên như cũ.
PHỤ CHÉP
Những ghi chép do cháu là Hồng lô tự Thiếu khanh
viết tháng Mười năm Thiệu Trị 7 (1847)
– Quốc tử sinh trường Quốc tử giám Phan Quý công tên tự là Duy Xưởng, nguyên là con trai trưởng của cụ Phan công tên tự là Khắc Nhất, và là anh cả ông của ta là ông Duy Ninh. Ông sinh ra Phan Đoá (tên tự là Duy Phương), Phan Kiềm, đều mất sớm, không có người nối dõi, chỉ còn 1 gái là Thị Khiên, tức là mẹ của lính Cần. Sau nhiều đời, không còn của cải gì để tiếp nối việc thờ cúng, bài vị vẫn hưởng thờ cúng ở nhà thờ. Vả Quý công cũng là ông của ta, nếu chiếu theo luật lệ ngày nay thì phải tiếp nối việc thờ cúng.Theo nghiệp nhà từ trước, lấy ông của ta là Duy Ninh công nối dòng trưởng phụ trách việc tế tự ở nhà thờ. Việc cúng giỗ vợ chồng Quý công chưa có chỗ cậy nhờ, con cháu hiền thảo đời sau an tâm được sao! Năm Đinh Mùi (1847), Nhã tôi bỏ ra 1 hốt bạc giao cho người kế tự ở dòng đích là Phan Duy Trinh, để mua ruộng đất mỗi thứ một thửa (1 thửa ruộng ở Đồng Muối, do Phạm Nhã Lượng ở thôn ta bán đứt với giá 47 quan tiền, phía đông gần ruộng của Thầy Xuân, phía bắc gần ruộng của Mụ Dao ; 1 mảnh đất ở xứ Lò Cuội, do Kiều Đình Phương ở thôn ta cầm cố với số tiền là 25 quan, phía đông gần đường, phía bắc gần ruộng của nhà Tri). Số ruộng đất ấy giao cho người kế tự ở dòng đích nhận cai quản (văn tự, khế ước thì vẫn nắm lấy để cất giữ). Hàng năm vào ngày 19 tháng Sáu là ngày giỗ của Quý công, ngày 12 tháng Tư là ngày giỗ của bà con gái thứ ba nhà họ Kiều, chánh thất của Quý công, cùng các ngày lễ tết trong năm, phải làm mỗi lễ một mâm, vẫn giữ việc tế tự ở nhà thờ, để tỏ rõ cái nghĩa tôn kính thương yêu đối với người thân. Đợi đến khi hết người thân thuộc để gánh vác việc thờ cúng rồi thì thôi, như thế cũng là cái lễ có thể làm cho cái nghĩa dấy lên. Các con cháu hãy ghi nhớ lấy.
4.2 Tiên tổ Phan Ô tự là Duy Thể thuộc dòng nhà bác, làm Xã trưởng, là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Duy Năng (đời 06). Thiếu thời Người theo nghề buôn bán ở trại Phàm Nặng sách Võ Quang. Vào khoảng năm Mậu Thân – Kỷ Dậu (1788-1789), phần mộ bị thất lạc, không dựa vào đâu để nhận biết. Năm Kỷ Dậu (1825) lại hồn táng ở xứ Mụ Uẩn. Vợ chồng Người không có con cái, (giỗ ngày 30 tháng Hai),
4.3 Tiên tổ Phan Duy Ninh (tự là Vĩnh Kỳ), (cụ Phan Văn Nhã gọi bằng ông nội) là con trai thứ ba của tiên tổ Phan Duy Năng (đời 06), làm Tường sinh Quận Tường kiêm Hiệu sinh, Thủ chính. Tên thuỵ là Đôn Hậu phủ quân, trong nhà tên huý là Lạm, Người sinh vào giờ Tý ngày 11 tháng Tám năm Kỷ Tị, bản tính đôn hậu, hào phóng ngay thẳng chất phác, không chú trọng để tâm vào việc gì, thiếu thời theo đòi nghiệp học, khoa Kỷ Mão, 11 tuổi thi đỗ ba trường, sau lui về chăm lo cuộc sống, làm ăn có phương pháp, không loại trừ mưu kế tầm thường nào nên sánh được với các thương gia giàu có. Khi đã có sản nghiệp, Người lại giỏi sử dụng của cải, phàm những việc ở trong làng xóm, phần nhiều đem tiền của ra cố gắng giải quyết, không chút hối tiếc. Người lại nhiều lần chu cấp cho bạn bè khách khứa, đãi ngộ rất hậu, không khác gì đối xử với người cùng vai vế. Hàng năm tổng ta mở tiệc để các vị quyền quý có chức tước tập họp nhau bình luận những việc hay cảnh đẹp, phàm việc cung cấp các phí tổn cho bữa tiệc Người cũng không tiếc thứ gì, việc ưu đãi tôn sùng đạo Nho của Người đại loại nhiều như thế. Các hiệu sinh, tư văn thôn ta trọng cái nhân cách đôn hậu, lại có hằng tâm hằng sản của Người, bèn liên danh họp nhau, bảo cử Người làm Thủ chính để biểu dương đức tính tốt đẹp của Người. Người sinh được 3 trai là Phan Xênh, Phan Vinh, Phan Nô ; 1 gái là Phan Thị Huề và 2 người con gái mất sớm là Phan Thị Vịnh, Phan Thị Ni. Người mất ngày 29 tháng Mười năm Quý Hợi(1803), hưởng thọ 55 tuổi, mộ nguyên táng ở xứ Đội Mộ ; năm Quý Mùi(1823) cải táng ở xứ Đường Quan, đổi đặt toạ Tân hướng ất (đầu gối hướng Tây tây bắc – mặt hướng về Đông đông nam) ; ngày tháng Bảy năm ất Mùi(1835), sang cát đổi táng ở xứ Đồng Muối, đổi đặt toạ Càn hướng Tốn (đầu gối hướng Tây bắc – mặt hướng về Đông nam).
* Vợ cả của Người là con gái thứ hai nhà họ Nguyễn, hiệu là Từ Thuận nhụ nhân (tên huý là Nguyễn Thị Chào), Người sinh giờ Dần ngày 25 tháng Chín năm Nhâm Thân (1752), là người nhân từ hoà nhã, đoan trang hiền thục, chính trực, theo chồng không hề có lầm lỗi gì, những người phụ nữ khác không thể sánh kịp. Xưa có câu “ người đàn bà đi lấy chồng, được lòng chồng được cả lòng người. Cả đời gìn giữ phẩm hạnh, Người thường thích làm điều nhân ái. Ai nào thiếu thốn túng quẫn, Người bỏ tiền của ra cho vay, người nào không thể trả được nợ, cũng tuỳ theo sức của họ trả được đến đâu mà đánh tiếng nói là đã trả đủ rồi và không truy hỏi lại nữa. Người đói khát thì được chia sẻ cơm ăn thức uống. Khoảng năm Thân năm Dậu mùa màng thất bát, dân bị đói, người ta khổ cực cùng quẫn, không thể tự nuôi thân, Người tự mình tiết kiệm, lấy bớt một phần chi dùng của nhà đem giúp đỡ những kẻ nghèo khó trong họ tộc, trong xóm làng. Tình thương yêu của Người đến tận trẻ em; sự chăm sóc đến cả loài vật. Người thường trợ giúp cho người ta lúc cái này, lúc cái khác và không chỉ một lần. Con cháu được hưng vượng thực là nhờ ân đức của Người vậy. Năm Quý Hợi (1803) cụ ông qua đời. Năm tháng qua đi, sức khoẻ của Người dần dần suy giảm, mọi sự lo liệu trong nhà Người phó mặc cho người con trai, vậy mà nếp nhà vẫn được hoà mục, đạo tam tòng không có điều gì thiếu sót. Người mất vào giờ Ngọ ngày 25 tháng Chín năm Canh Thìn (1820), hưởng thọ 69 tuổi. Khi ấy người con trai trưởng đã mất từ trước, chỉ có người cháu trưởng thay cha để tang bà, cùng với 2 người con trai và 1 người con gái của người cháu trưởng. Đám con cháu nghiêm chỉnh đưa thi hài Người về nơi an nghỉ, không có điều gì là thiếu chu tất. Mộ được táng ở xứ Đường Quan, sửa đặt toạ Càn hướng Tốn (đầu gối hướng Tây bắc – mặt hướng về Đông nam) gồm cả Thìn – Tuất (Đông Đông nam – Tây Tây bắc), phân kim Bính Tuất – Bính Thìn.
4.4 Tiên tổ Phan Duy Hiệu: là con trai thứ tư của tiên tổ Phan Duy Năng (đời 06), phục vụ trong triều đời Tiền Lê, lại được nhận chức Xã chính ở trong ấp. Người sinh năm Quý Dậu (1753), là người thông minh nhanh nhẹn, thấu hiểu đạo lý. Lúc tuổi trẻ, có chí học hành, hiểu biết nhiều, nhưng nhiều lần đi thi mà chí hướng vẫn chưa đạt được, nên lui về làm việc ở đội Khuông trung của ưu binh phục vụ trong triều. Người được nhận sắc phong làm Phó thiên hộ, một chức vị đầy oai phong, nhưng gặp lúc quân đội rối loạn nên chưa kịp tuyên bố thi hành. Vì vậy nên đành về làm việc ở làng quê, cái gì cũng chăm chỉ cần mẫn. Mọi người đối xử với Người như là đối xử với bậc tôn trưởng(3). Người mất ngày mồng 10 tháng Hai năm ất Hợi(1815), hưởng thọ 63 tuổi, mộ táng ở xứ Đường Quan, sau sang cát táng ở xứ Mụ Mấn.
* Vợ cả của Người là con gái thứ nhất nhà họ Phạm, hiệu là Thuần Tĩnh nhụ nhân (tên huý là Y), sinh năm Tân Mùi(1751), sinh được 4 gái là Phan Thị Nanh, Phan Thị Mỹ, Phan Thị Thuỳ, Phan Thị Duyện; 2 trai là Phan Phiến, Phan Hướng mất sớm. Người mất ngày 28 tháng Ba năm Canh Thân, mộ táng ở xứ Đường Quan.
* Vợ Lẽ tên là Vũ Thị Dĩnh sinh năm Đinh Sửu (1757), sinh được 2 trai là Phan Nhương (tức Duy Sứ) và Phan Sính (tức Duy Cừu). Người mất ngày 11 tháng Năm, mộ táng ở xứ Đội Mộ.
4.5 Tiên tổ Phan Duy Đức (tên huý là Hải) là con trai thứ năm của tiên tổ Phan Duy Năng (đời 06): là hiệu sinh phủ nhà triều Tiền Lê, tên tự là Kỳ Đài Phan phủ quân. Người sinh năm Đinh Sửu (1757), 12 tuổi thi đỗ Sinh đồ, sau đảm nhiệm việc tế tự ở Văn miếu. Người mất giờ Tuất ngày mồng 5 tháng Hai năm Bính Dần (1806), mộ táng ở xứ Ba Phần.
* Vợ cả là người họ Hoàng, hiệu là Trinh Thục nhụ nhân, tên huý là Thị Tri, là chị gái của Giám sinh Hoàng Thời Hiến người thôn ta. Người sinh năm Tân Mùi, sinh được 3 trai là Phan Đang, Phan Giang, Phan Hán ; 5 gái là Thị ý, Thị Khoản, Thị Thản, Thị Thiển, Thị Thuấn. Người mất ngày 21 tháng Mười một năm Đinh Hợi (1827), mộ táng ở xứ Trang Bãi.
4.6 Tiên tổ Phan Thị Rau là con gái của tiên tổ Phan Duy Năng (đời 06), lấy ông Kiều Năng Xiêm (Tiêm), sinh được 2 trai là Kiều Năng Thông, Kiều Năng Đãi; 2 gái là Mụ Cừu (tức Thị Độ), Chị Liêm (tức Thị Nha). Người mất ngày mồng 2 tháng Chín, mộ táng ở xứ Mụ Mấn.
4.7 Tiên tổ Phan Thị Huyên cũng là con gái của tiên tổ Phan Duy Năng (đời 06), lấy ông Hiệu sinh phủ nhà triều Tiền Lê, tên huý là Đán, tên tự là Nhã Khanh Phạm phủ quân, người thôn ta, sinh được 1 trai là Phạm Nhã Lượng, 2 gái là Phạm Thị Xoang, Phạm Thị Xanh. Người mất ngày 22 tháng Giêng năm Bính Tí, mộ táng tại xứ Mụ Mấn.
ĐỜI THỨ TÁM
1. Tiên tổ gồm Chị em bà Sách, ông Thìn (thuộc chi phái Phan Duy Gia (đời 06), chị Việt (thuộc chi pháI Phan Duy Mẫn (đời 06). Anh em ông Hoành (thuộc chi pháI Phan Duy Mậu (đời 06))
2. Tiên tổ Phan Đóa (tự là Duy Phương), Phan Kiểm: đều là con trai của tiên tổ Phan Quý Công Duy Xưởng (đời 07), đều mất sớm. Phan Thị Khiên cũng là con gái của Phan Duy Xưởng (đời 07). Lấy người họ Kiều, sinh được 1 trai là Kiều Năng Bảo.
3.1 Tiên tổ Phan Duy Tiến (Cụ Phan Văn Nhã gọi bằng bố) là con trai trưởng của tiên tổ Phan Duy Ninh (đời 07). Đậu Tú tài khoa thi Hương năm Đinh Mão, được ban tặng hàm Hàn lâm viện Thị độc, có tên thuỵ là Đoan Trực Phan phủ quân (tên huý là Xênh). Người sinh giờ Mùi ngày mồng 2 tháng Mười năm ất Mùi (1775), vốn là người ôn hoà, cẩn thận, đôn hậu, cần kiệm, trong sạch. Thiếu thời, Người gian khổ theo nghiệp học hành, được thầy thương bạn mến. Gặp lúc loạn lạc, chí lớn chưa đạt được, bèn lui về chuyên tâm vào việc làm ăn, lo gánh vác đạo nhà. Sau khi cha qua đời, Người nhận trọng trách quản lãnh việc quân, nhiều phen vất vả gian nan. Bằng trăm phương nghìn kế, Người đã làm cho gia đình dần dần ổn định, người trong nhà yêu thương đùm bọc nhau, không sinh tiếng này tiếng nọ. Trong khoảng 5 năm, Người nghĩ ngợi rất nhiều về thế thứ dòng họ, đưa ra kế hoạch xây dựng một ngôi từ đường ở ngay phía trước nhà, xế về bên trái, mặt quay sang hướng đông. Từ đường được làm toàn bằng thứ gỗ rắn chắc. Khởi công từ giữa mùa hạ năm Mậu Thìn (1808), đến đầu mùa đông thì hoàn tất. Toàn bộ chi phí lên tới hai trăm quan. Nhà thờ hoàn thành, đã có nơi để hương khói; từ đó Người ngày ngày chuyên tâm lo cho sinh kế của gia đình, buôn bán kiếm sống, đạo nhà ngày thêm tốt đẹp. Ngày ngày Người dạy cho con cái học, lấy sách vở làm nghề, răn cấm rượu chè cờ bạc, phép nhà rất nghiêm. Thêm vào đó, con cái còn có sự giúp đỡ của thầy, của bạn, không gián đoạn chút nào. Tuy gia đình gặp nhiều biến cố giữa lúc xã hội rối ren, nhưng Người không bao giờ xem nhẹ việc động viên con cái phấn đấu về đạo đức . Sự thành công của các con đều gắn với lòng thương yêu, quan tâm, cũng như sự dạy dỗ, răn bảo của người cha. Người bị bệnh và mất vào giờ Hợi, ngày 17 tháng Tám năm Bính Tí (1816), hưởng thọ 42 tuổi. Khi đó, Người còn có mẹ già đang tại thế, con trai trưởng mới 20 tuổi, bốn năm đứa con khác đều còn thơ dại, cảnh nhà thật ngoài ý muốn, công việc báo hiếu biết cậy vào ai? Mộ của Người nguyên táng ở xứ Đội Mộ, năm Bính Tuất(1826) xét thấy mộ đặt không được tốt, nên vào giờ Mão ngày Mậu Thân, tức 28 tháng Bảy năm ấy, đem cải táng cụ tại ruộng xứ Cửa Lăng, thuộc đất công của thôn ta. Huyệt đất ấy, mộ tổ từ Ni Sơn theo hướng Bính Ngọ Đinh (Nam Đông nam – Nam – Nam Tây nam) chuyển tới núi hướng Canh Dậu (Tây Tây nam – Tây) ở Tùng Lãnh, theo hướng Canh (Tây Tây nam) long mạch từ xa tới, chuyển hướng Hợi (Bắc Tây bắc) mà vào đầu, cho nên sửa đặt lại ngôi mộ toạ Nhâm (đầu gối hướng Bắc Tây bắc) hướng Bính (mặt hướng về Nam Đông nam), phân kim Tân Hợi – Tân Tị. Bên trái phía Đông có cây bút hướng Tốn (Đông Nam), đẩy lên phía chiếc bàn. Bên phải phía Tây có cây bút hướng Đinh (Nam Tây nam), với dáng bảo vệ huyệt. Trước mặt có bãi cát hướng Bính (Nam Đông nam) làm chiếc bảng, xa về phía bàn, có cây bút xông thẳng lên trời, đúng là phong cách văn học. Về cửa nước, bên trong phóng ra từ Mùi(Nam Tây nam), bên ngoài phóng ra từ Thìn (Đông Đông nam), thầy địa lý bấy giờ khen là nơi đất tốt. Bản di văn nói: “Sao Thổ mở cửa ra hướng Kim (Tây), huyệt ở vào khoảng giữa. Đang lúc điểm huyệt thì tìm được đồ vật cũ bằng đất vàng nằm ở trong huyệt, đoán rằng: sau khi cải táng vào đất ấy, chỉ từ 3 năm đến 6 năm, hoặc 16 năm, tức vào các năm Tỵ, Ngọ, Tuất, Hợi sẽ nối nhau hưng vượng, có rất nhiều người đỗ đạt về văn học. Người nào phát ở khoa Tý, đến khoa Ngọ sẽ phát triển mạnh. Kính đoán.” Về sau con cháu mua gạch ngói, vôi vữa xây tường bao quanh, sửa sang mộ phần khang trang ngay ngắn. Năm Tự Đức 20 (1867), chi người con trai là Đình Tuấn lại sửa sang, xây nhà mái ngói ở trên phần mộ, hai bên là hai nhà cầu, mặt trước là cửa ngăn và hai cột cờ, rất là tráng lệ. Cho đến khoảng niên hiệu Hàm Nghi, vì loạn lạc, ngôi mộ bị phá trở nên hoang phế. Đến năm Duy Tân thứ 3 (1909), cháu nối dõi bốn đời là Liễu nhân dịp làm lại nhà thờ đại tôn, đã tu sửa lại ngôi mộ như trước.
* Vợ cả của Phan Duy Tiến là con gái thứ ba của tiên tổ Mai Công Lân, hiệu sinh phủ ta kiêm Kỳ niên Thủ chỉ, tên thuỵ là Phác Hậu. Người được ban tặng danh hiệu là Chánh ngũ phẩm nghi nhân. Hiệu là Từ Huệ nghi nhân (tên huý là Thị Ngưng). Người sinh giờ Dần ngày 26 tháng Mười năm Đinh Dậu (1777), đúng vào lúc bố mẹ làm ăn phát đạt, giàu có, môn đăng hộ đối với tiên tổ Phan Duy Ninh. Mẹvề với cha ta lúc tuổi vừa cập kê. Mẹ tính tằn tiện, cai quản và xây dựng gia đình, trở thành nhà gia thế. Với mình thì mẹ tiết kiệm, nhưng khi đãi khách hoặc tế lễ, thì mẹ lại rất rộng tay, đồ ăn, thức cúng, cái gì cũng thanh khiết. Mẹ rất cố gắng trong việc gìn giữ nếp nhà. Mẹ sinh được 5 trai 1 gái, đều là những người có tố chất tốt đẹp, hoặc trở thành người chồng giỏi giang, hoặc trở thành người con có ích. Sự gắng sức làm điều phúc của mẹ không ai sánh nổi. Mẹ 40 tuổi thì cha bị bệnh mà mất vào ngày 17 tháng Tám năm Bính Tí (1816). Bấy giờ anh trưởng là Doãn Phủ (Phan Quýnh) mới lập gia đình, còn các em thì đều thơ dại, chưa thể nhờ cậy được. Cái ăn, cái mặc đều trông vào mẹ. Ngoài xã hội lại đúng lúc lương thực thiếu thốn, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Toan tính sao cho cân bằng khi được mùa cũng như lúc thất bát; lo sao cho toàn vẹn giữa buổi loạn lạc, nhiễu nhương. Mẹ phải trăm phương nghìn kế lo lắng cho gia đình, lòng rối như tơ vò, mẹ vẫn đứng vững và giữ lòng trinh tiết. Trong lúc đau thương, mẹ không bước đến chốn thị thành đã 3 năm rồi. Người trong làng khen ngợi tiết hạnh của mẹ. Mẹ cai quản gia đình nghiêm túc mà có phương pháp, lại noi theo chí hướng của cha ông, ngày ngày lấy việc học hành để khuyên bảo đàn trẻ, giúp các con đèn sách, dùi mài học tập không ngừng, vì mục tiêu làm vẻ vang cho quê hương mà cố gắng. Sau vài năm, tang cha sắp mãn, các con của mẹ được dạy dỗ ở nhà, đều có chút kiến thức để gây dựng sự nghiệp. Ai cũng học hành tiến bộ, hy vọng sẽ thành đạt. Rồi con cái mẹ lần lượt trưởng thành, trai lấy vợ, gái gả chồng, mẹ rất thoả nguyện. Trong có họ hàng, ngoài có xóm làng, mọi việc đối xử mẹ đều hết lòng lo liệu, giải quyết như lúc cha còn sống. Bấy giờ anh cả với tư cách là người nối dõi dòng đích, tuổi đã lớn, bắt đầu biết góp sức lo liệu việc nhà, nhờ đó sinh kế gia đình có phần dễ thở. Năm Giáp Thân, anh cả bất hạnh qua đời, để lại cho mẹ cả một gánh nặng. Các em đều theo nghiệp học hành, phần nhiều lại chưa trải việc đời, mẹ một mình gánh vác những việc khó nhọc. Trong vòng 10 năm, gia đình xảy ra một vài biến cố. Những đêm thu gió mưa lạnh lẽo, mẹ vẫn cố vượt qua. May mà vận trời xoay chuyển, hết bĩ lại thái. Ông trời giúp kẻ tốt, khiến cho người chính trực được sống lâu. Mẹ sống cho tới lúc nhìn thấy các con trưởng thành. Khoa thi năm Mậu Tý (1828), con trai thứ hai của mẹ là Nhã từ Tú tài đỗ Hương tiến (Cử nhân); khoa thi Hội năm Kỷ Sửu (1829) tiếp đỗ Phó bảng. Bấy giờ mẹ đã 52 tuổi. Lần ấy, trong làng xóm đã hơn 40 năm vắng người đỗ đạt, nên việc con trẻ trong nhà may mắn có một người thi đỗ, ít nhiều cũng làm phấn chấn giới học Nho, khiến lòng mẹ được an ủi chút ít. Sau khi Nhã tôi đã ra làm quan, chỉ trong vòng 5 năm, người con trai thứ 3 của mẹ là Phong, thứ 4 là Tuấn cùng đỗ Tú tài khoa năm Giáp Ngọ(1834). Đến năm Đinh Dậu (1837), Phong cùng với người em trai thứ 5 là Tuyển đỗ Cử nhân trong khoa thi Hương. Năm Canh Tý (1840), Phong lại đỗ Hương tiến. Năm Quý Mão (1843), Tuyển đỗ Hương tiến; Đến khoa thi Hội năm Giáp Thìn (1844), lại đỗ Phó bảng, trước sau nối tiếp nhau.
Trộm nghĩ, ta được hưởng ân trạch của vua và được may mắn hầu hạ cha mẹ, chẳng cái gì là không do phúc đức của nhà ta đưa lại. Ngay như tuổi thọ là cái phúc của mẹ ta lúc cuối đời cũng từ đó mà ra. Năm Bính Thân, mẹ đã lên tuổi 60, con cháu đông đúc, bốn đời sống chung một nhà. Bấy giờ Nhã tôi đang giữ chức Lang trung bộ Lễ ở Kinh đô, bèn làm một bức trướng mừng thọ và đặt tiệc mừng. Tiếp đó là những năm Bính Ngọ, Bính Thìn, mẹ đã bảy tám mươi tuổi. Trong thời gian này, các con lần lượt được thăng quan. Mỗi khi đến dịp mừng thọ mẹ, thì dù làm quan trong triều hay ngoài nội, các con đều đem trướng hay câu đối tới chúc. Châu ngọc đặt đầy bàn, văn chương chảy trên tơ lụa. Con cái, cháu chắt, mở hết tiệc này đến tiệc nọ, quây quần quanh gối cho mẹ vui lòng. Phúc trạch như vậy cũng có thể gọi là dày dặn rồi.
Ngày mồng 1 tháng Mười năm Bính Thìn(1856), đúng vào dịp sinh nhật mẹ, áo đỏ áo tía đầy sân, tiệc mừng trong ngoài nhộn nhịp. Ai dè đến giờ Tuất ngày mồng 2 tháng Mười năm ấy, mẹ đã ra đi, thọ 80 tuổi. Trong khoảnh khắc ly biệt, Nhã có mặt ở đó, với trách nhiệm chăm sóc mẹ đến phút cuối cùng...
Mẹ có ruộng, có nhà cũ. Các con khi mẹ còn tại thế, người đấu gạo, kẻ thăng thóc thường đưa biếu cho mẹ ăn. Việc lo liệu tang lễ giờ đây mọi mặt đều rất chu đáo. Lúc mẹ còn sống có xem bói, định đặt phần mộ sau khi trăm tuổi ở xứ Mụ Mấn. Dùng trứng để thử, qua 2 tháng mà không thay đổi, vì thế biết đây là chỗ đất tốt. Chọn giờ ất Tị ngày Đinh Tị mồng 5 tháng Ba năm Đinh Tị để an táng. Đặt la bàn theo hướng Khôn – Cấn (Tây Nam – Đông Bắc), phân kim Tân Mùi – Tân Sửu. Hôm ấy, bắt đầu từ giờ Tuất, trời đổ mưa, kéo dài đến mấy ngày liền. “Thân xác vẹn toàn mà qui”, là nói về điều đó vậy, nên ta ghi hết lại cho đời sau được biết. Đến ngày tháng Ba năm Mậu Ngọ, xây xong mộ bằng gạch. Ngày tháng Sáu năm Giáp Tí, thấy trên phần mộ có chỗ mối bò ra, nước vào trong áo quan. Bèn chọn chỗ đất cách ngôi mộ cũ khoảng 5, 6 thước, sửa đặt toạ Canh (đầu gối hướng Tây Tây nam) hướng Giáp (mặt hướng về Đông Đông bắc). Đến ngày 25 tháng Tám, quay lại xem, thấy ngôi mộ cũ may mắn nhận được sinh khí từ hướng Tân – Tỵ (Tây Tây bắc – Nam Đông Nam ) tới, như đoá hoa gấm, nên không dám tự ý dời mộ sang chỗ khác, mà vẫn đắp điếm lại rồi xây gạch như trước. Ngày 22 tháng Năm năm Đinh Dậu niên hiệu Thành Thái 9 (1897), con cháu thấy đất trên phần mộ bị sạt lở, có chỗ lộ ra cả, nên phải cải táng đến xứ Cồn Tranh, thôn Phúc Thái, xã An Trung, toạ Đinh (đầu gối hướng Nam Tây nam) hướng Quý (mặt hướng về Bắc Đông bắc), phân kim Đinh Mùi – Đinh Sửu. Phần mộ này nằm trên đất của thầy Quản Tương người An Nội. Năm Tân Sửu, cháu bốn đời (chút) nối dõi là Liễu, đem gạch đá xây lại mộ, hết 85 quan tiền..
- Nhà thờ của chi ta thờ cúng chỉ có bốn đời, theo lễ thì như thế mà thôi.
- Cha ta tên tự là Thiện Nhân. Mẹ cả họ Mai, cần cù tằn tiện để dấy nghiệp nhà, con cháu đông đúc thịnh vượng, phúc khánh tràn đầy. Sinh được 6 người con vừa trai vừa gái, đều trở thành những người có khí chất tốt đẹp. Tuổi trung niên, cha lại xây dựng gia từ, mở mang nhà cửa, các con đều lần lượt thành đạt, nối nhau được thăng chức, làm quan ở tỉnh, phủ hay trong Kinh. Đám cháu chắt cũng noi theo nghiệp đèn sách của ông cha, bồi đắp thêm phúc trạch, phúc ấm mỗi lúc một sâu dầy.
Sau khi song thân qua đời, các con đã đặt ruộng giỗ, thay nhau trông giữ để làm cái kế muôn đời không thay đổi. Năm Tự Đức Kỷ Mùi (1859) gặp ngày lễ lớn của nước, được nhà vua ban tờ cáo tặng cho cha hàm Hàn lâm viện Thị độc, thuỵ là Đoan Trực; mẹ hàm Chánh ngũ phẩm Nghi nhân. Mẹ Mai, với gia đình là người con hiếu, với đất nước là người có tiếng thơm, công đức rất là rõ ràng, cần được biểu dương, đề cao. Thần vị mẹ đáng đặt trong gia từ để làm ngọn cờ cho con cháu noi theo. Đó cũng là lễ, có thể làm dấy lên điều nghĩa vậy. Hiện nay ở nhà thờ vẫn nên theo thứ bậc mà thờ cúng y như trước, không được tuỳ tiện bàn chuyện thay đổi. Bài vị của hai vị cũng không nên dựng tẩm cung mà đặt riêng. Về số ruộng thờ ban đầu đặt ra, sẽ để lại cho đời sau con cháu chiếu theo lệ thường mà trông coi, đời đời cung cấp cho việc thờ cúng. Thảng hoặc có người nào nảy sinh lời bàn khác lạ, hoặc cố ý chiếm dụng thiên lệch thì sẽ định tội là bất hiếu. Kinh Lễ có nói “trăm đời không dời đổi”. Hãy làm theo lời nói ấy!
Hạ tuần tháng 11 năm Tự Đức Giáp Tý (1864)
Con lớn Phan Văn Nhã phụng ghi. (Năm Duy Tân 5 (1911)
Cháu bốn đời nối dõi là Liễu phụng sao).
3.2 Tiên tổ Phan Duy Vĩ (húy Vinh) là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Duy Ninh (đời 07) làm Xã chính trong ấp, tên tự là Lượng Hoành, thuỵ là Cương Trực Phan phủ quân. Người sinh vào giờ Dậu ngày 27 tháng Bảy năm Kỷ Hợi (1779), cả đời hào phóng ngay thẳng, cứng cỏi theo tính tự nhiên, ít hoà hợp. Cung thê thiếp cũng trải qua vài lần nhưng không có con cái, sau lấy bà Phan Thị Mẫn người thôn Trinh Nguyên đình ta, sinh được 2 trai là Phan Trị, Phan Hoa, mới lên bốn lên năm đều mất sớm. Người mất vào giờ Mùi ngày mồng 6 tháng Giêng năm Quý Mùi. Sau khi mất không lấy ai nối dõi, cho đến năm ất Dậu, cháu họ là Phan Văn Nhã đưa bài vị về nhà, tự mình lo việc thờ cúng Người, nhân đó chuộc về số ruộng trước kia Người đem thế chấp cầm cố, để làm ruộng giỗ. Mộ táng ở xứ Đường Quan, đặt toạ Tân(đầu gối hướng Tây Tây bắc) hướng ất (mặt hướng về Đông Đông nam). Đến năm Đinh Mùi, lại sang cát táng ở xứ Bà Mấn, toạ Dậu (đầu gối hướng Tây) hướng Mão (mặt hướng về Đông).
* Vợ của Phan Duy Vĩ là Phan Thị Mẫn người họ hàng với Phan Thời Khắc người thôn Trinh Nguyên đình ta. Sau khi con cụ mất sớm, cụ ở nhờ dựa vào bên họ ngoại. Nhã làm quan ở xa nhưng vẫn giữ phận là cháu, liên tục cung cấp cái ăn cái mặc cho cụ, trước sau một lòng kính mến. Năm Canh Tuất, cụ già yếu bệnh tật, Nhã nghe tin, từ nơi làm quan làm đơn xin về thăm hỏi, thuốc thang chữa trị, qua hơn một tháng, cụ vì bệnh mà mất vào giờ Tuất ngày 13 tháng Chín năm ấy, nghi thức đưa tang mọi thứ Nhã đều làm như đối với mẹ đẻ. hưởng thọ 60 tuổi, mộ táng ở xứ Bà Mấn, nay lại cải táng nhưng vẫn táng ở xứ ấy, toạ Đinh (đầu gối hướng Nam Tây nam) hướng Quý (mặt hướng về Bắc Đông bắc) gồm cả hướng Tí (Bắc), phân kim Bính Ngọ Bính Tí.
3.3 Tiên tổ Phan Duy Tốn tự là Thị Chí thuỵ là Chu Thận Phan phủ quân tên huý là Nô là trai út của tiên tổ Phan Duy Ninh (đời 07), là sinh viên khoá mùa đông năm Đinh Hợi, kiêm làm Xã chính trong ấp. Người sinh vào giờ Sửu ngày 24 tháng Tư năm Bính Ngọ(1786). Cụ sớm đã thông minh, khá hiểu biết về văn chương chữ nghĩa. Tuổi còn nhỏ đã mất cha. Lớn lên, vì việc binh thúc ép, mới 16 tuổi đã phải sung vào ngạch lính. Làm việc trải hơn 10 năm, an tâm ở trong quân ngũ. Sống chắt chiu, tự mình tiết kiệm, không quấy nhiễu nhờ vả họ hàng làng xóm. Đến khoảng năm Tuất, Hợi, cụ bị bệnh nên làm đơn xin về. Về rồi, cụ bèn lo tính chuyện sinh kế gia đình, ra sức cần mẫn kiếm sống. Nhờ phúc ấm tổ tiên, chịu thương chịu khó, tằn tiện tích góp, nghiệp nhà ngày một giàu có, dư dật, trở thành một nhà có tiềm năng ở trong làng. Người tuy học thức không có gì hơn người, nhưng cũng có thể gọi là sống khôn ngoan. Người lấy bà Hoàng Thị Nghĩa con gái họ Hoàng ở trong thôn (con gái của cố Sáng). Con trai để nối dõi thì lần lượt nuôi không được. Còn 4 cô con gái là Thị Hân, Thị Huy, Thị Khoa, Thị Dũ thì cũng đều mất sớm. Ngày 29 tháng Ba năm Canh Dần Người bi bệnh mà mất. Cụ khi còn sống đã nghĩ đến chuyện không có người nối dõi, muốn lấy con trai út của người anh là Phan Đình Tuyển làm người nối dõi. Sau khi Người mất, họ ta theo như ý cụ, đặt Phan Đình Tuyển làm người chủ trì việc thờ cúng cụ. Trong thời gian tang ma, Nhã mới thi đỗ, được bổ làm Đồng Tri phủ phủ Quy Nhơn. Hồi này mọi việc tang ma, cúng tế chú, làng xóm đều tới giúp đỡ như đối xử với người có đạo đức cao dày, nên tất cả đều được chu đáo, không có điều gì thiếu sót. Mộ cụ táng ở xứ Đường Quan, toạ Càn (đầu gối hướng Tây bắc) hướng Tốn (mặt hướng về Đông nam), phân kim Bính Tuất, Bính Thìn. Cụ hưởng thọ 45 tuổi. Về sau xem xét, thấy đất táng đã hấp thụ được sinh khí, vậy là tốt.
* Vợ của Phan Duy Tốn là Nhụ nhân họ Hoàng (tên huý là Thị Nghĩa), mất ngày 13 tháng Bảy năm Nhâm Thìn, nguyên táng ở xứ Đội Ngọn, sau cải táng đến xứ Bà Mấn.
3.4 Tiên tổ Phan Thị Huề là con gáI của tiên tổ Phan Duy Ninh (đời 07), là Nhụ nhân, chồng là Kiều Năng Lẻn người thôn ta. Người bị bệnh đau u mãn tính nên không sinh con nối dõi được. Người sinh năm Giáp Dần, mất ngày 26 tháng Mười một năm Đinh Hợi, mộ táng ở xứ Đường Quan. Hiện nay, người cháu họ là Kiều Năng Cường phụng thờ.
4.1 Tiên tổ Phan Duy Sử (Sứ) tên húy là Nhượng là con trai trưởng của tiên tổ Phan Duy Hiệu (đời 07) làm Xã chính trong ấp, Người sinh năm Quý Sửu (1793), mất ngày 22 tháng Ba năm Quý Mão (1843), hưởng thọ 51 tuổi, mộ táng ở xứ Mụ Mấn. Người lấy con gái ông Mai ấn người thôn ta tên là Mai Thị Huy làm vợ, sinh được 3 trai là Phan Tuỳ tên tự là Duy Hựu (tục gọi là Ông Lai) ; con trai thứ là Phan Duy Huy (tục gọi là Cố Liêu) ; con trai thứ nữa là Phan Duy Diệu (tục gọi là Chú Củng lưu lạc ra Bắc Kỳ, không biết còn sống hay đã mất) ; và 1 gái là Thị Hai gả cho người họ Phạm (bà tục gọi là Cô đồ Chương).
4.2 Tiên tổ Phan Duy Cầu (húy là Sính) là con trai thứ của tiên tổ Phan Duy Hiệu (đời 07), làm lính đội 6 Tả vệ, Tuyển phong Tả doanh quân Thần sách, tên tự là Lâm Lang, thuỵ là Phác Hậu Phan phủ quân. Người sinh năm Đinh Tỵ (1797), mất vào ngày 24 tháng Mười hai năm Giáp Ngọ (1834), hưởng thọ 37 tuổi, mộ táng ở xứ Trang Chít. Người lấy con gái họ Nguyễn ở thôn ta là Nguyễn Thị Thiện làm vợ, bà giỗ ngày 27 tháng Sáu, mộ táng ở xứ Đội Mộ, sinh được 1 trai là Phan Đặc, tự là Duy Hinh (lưu lạc ở Bắc Kỳ, không biết còn sống hay đã mất) ; 2 gái là Thị Dực, Thị Chức (tức là vợ ông Thoại ở thôn An Nội, gọi là mụ Chính Thoại).
5.1 Tiên tổ Phan Duy Tế (tên húy là Giang) là con trai trưởng của tiên tổ Phan Duy Đức (đời 07), làm Xã chính trong ấp, lại nhận làm việc trong quân đội. Tế Uy bá Phan phủ quân. Người sinh năm Đinh Dậu (1777), trong lúc đã hơi lớn tuổi, họ ta thiếu lính không có người điền vào cho đủ, ấp khuyên cụ cố gắng ra nhận làm việc quân. Qua 2, 3 năm, đến ngày mồng 6 tháng Mười năm Đinh Sửu cụ bị bệnh mất ở quê, hưởng thọ 41 tuổi, mộ táng ở xứ Đội Mộ. Cụ lấy con gái họ Hoàng người thôn ta là Hoàng Thị Nhượng làm vợ, sinh được 2 gái là Phan Thị Thượng, Phan Thị Chinh. Nay quy về cho người cháu của cụ là Phan Duy Lệnh (tức ông Tổng Trạc) phụng thờ.
5.2 Tiên tổ Phan Duy Vĩ tục gọi là ông Phó là con trai thứ củ tiên tổ Phan Duy Đức (đời 07), làm Xã chính trong ấp, Đệ nhị lang Phan phủ quân. Người sinh năm Canh Tí (1780), mất vào ngày mồng 1 tháng Sáu năm Bính Thân (1836), hưởng thọ 57 tuổi, mộ táng ở xứ Đầu Bàu, cải táng tại xứ Trang Quan. Người lấy con gái họ Kiều ở thôn ta là Kiều Thị Chuyên làm vợ, sau lại lấy người thôn Trinh Nguyên làm thiếp, đều không sinh được con nối dõi, nay quy về cho người cháu của Người là Phan Duy Lệnh phụng thờ.
5.3 Tiên tổ Phan Duy Tiếu tên huý là Hán là con trai út của tiên tổ Phan Duy Đức (đời 07), làm Xã trưởng trong ấp, tên tự là Khắc Loại Phan phủ quân Người sinh năm Quý Mão (1783), mất vào ngày mồng 1 tháng Mười một năm Quý Mùi (1823), hưởng thọ 41 tuổi, mộ táng ở xứ Đội Mộ. Cụ lấy con gái họ Kiều ở thôn ta là Kiều Thị Quật làm vợ, sinh được 2 trai là Phan Truyền mất sớm, còn 1 trai là Phan Toàn, tự là Duy Lệnh. Nay việc thờ cúng trong chi chỉ do Phan Duy Lệnh lo liệu.
Tri phủ Phan Văn Liễu (đời thứ 11) viết vào năm 1911
và Phan Văn Quý (cả Bang, đời thứ 12) chép lại có bổ xung
Bản dịch: Lê Văn Duyệt (tự Tân Việt) dịch tháng 05/1997
ĐỜI THỨ CHÍN
1.1 Tiên tổ Phan Quỳnh (Phan Văn Liễu gọi bằng ông nội) tên tự là Doãn Phủ, thuỵ là Cẩn Hậu Phan phủ quân là con trai trưởng của tiển tổ Phan Duy Tiến (đời 08), là Sinh viên năm Kỷ Mão, đến mùa xuân năm Quý Mùi được chọn là đầu khoá trong trấn. Người sinh vào giờ Mùi ngày 21 tháng Bảy năm Đinh Tỵ (1797). Người thuần hậu, chân chất, đặc biệt khiêm nhường. Đối với anh em trong gia đình ông bao giờ cũng tự mình gánh vác phần khó nhọc, còn để phần nhàn nhã cho người khác. Thêm nữa, lại rất thương yêu anh em, nhanh nhẹn, tháo vát trong công việc. Sau khi cha mất, mọi sự trong nhà ông đều lo liệu giải quyết ổn thoả. Phép nhà nhờ thế không bị sứt mẻ, ai cũng sống trong sạch, không lêu lổng chơi bời. Tuổi trẻ ông theo đòi khoa cử, công phu mài dùi càng thêm kỹ càng. Tuy sống trong chốn phồn hoa náo nhiệt, dễ thành kẻ ăn chơi, ông trước sau vẫn giữ được phẩm chất. Thuở nhỏ, tính ông hơi đần, được cái là học chậm nhưng nhớ lâu, nên ông rất cố gắng để tự khắc phục nhược điểm của mình. Trong khoảng 6 năm trời, tay không rời quyển sách. Trên được thày kèm cặp, dưới được bạn giúp đỡ, sự tiến bộ của ông dần dần thấy rõ, từ đấy văn từ ngày thêm thuần thục. Năm Kỷ Mão (1819), ông đi thi mới đỗ có hai trường, chưa được như ý muốn. Trở về, ông thân hành dẫn dắt các em, riêng mình thì tự rèn luyện cho thật tốt. Lại tìm đến xin học tại trường của tiên sinh họ Hồ ở Quỳnh Lưu. Học lực có tiến bộ trông thấy, nếu được dự cuộc thi Ân khoa sắp tới thì cũng rất có hy vọng. Nhưng đến năm Canh Thìn (1820), bởi ông là con trai đầu lòng đang phải chịu trọng tang, mà thời hạn cuộc thi lại tới gần, nên ông không tham dự được. Bị loại khỏi danh sách, ông chỉ còn cách đốc thúc, khích lệ các em cố gắng học hành. Đang khi vẫn còn để tâm trong vòng bút mực, ông dường như không tự hoạch định được điều gì khác. May mà sau đó, ông được nhận vào học ở trường của Điện Thành Phan tiên sinh trước là Tiến sĩ, giữ chức Quốc tử giám tế tửu, nay đã nghỉ hưu. Với sự chăm chút, giúp đỡ của thày và của bạn, kiến thức ông càng được mở rộng. Trong kỳ thi sát hạch vào mùa xuân năm Quý Mùi (1823), với lời văn lưu loát, trang nhã ông đã đứng đầu trong số người được tuyển chọn, khi ấy ông mới 27 tuổi. Bạn bè cùng trang lứa đều không ngờ, ai cũng tỏ ra kinh ngạc và cảm phục ông. Trong kỳ thi sát hạch mùa xuân năm Giáp Thân (1824), ông thi cả bốn trường. Về văn thể cũng như văn lý ông đều đạt loại ưu, đứng vào hàng thứ hai. Từ đó, ông được gọi tên là Nghệ Phố, mọi người đều hy vọng vào sự thành công của ông. Giả sử trời cho mượn tuổi, thì sự nghiệp của ông đâu dừng ở đó. Không may trời lại keo lận đối với ông: mới 28 tuổi, thình lình ông qua đời vào giờ Mão ngày 28 tháng Mười năm ấy! Thật chẳng ai là không có số phận đã được định sẵn. Ba tháng trước khi mất, ban đêm ông nằm mộng thấy bà vợ thứ của Điện Thành tiên sinh đến bảo rằng: Ông thân sinh đã mất của ta có ý mời thầy đến nhà để dạy cho các con học tập. Hiện nay, thắng cảnh Mai Hồ thật là khu đất đáng yêu, các học trò sẽ dựng ba gian phòng văn ở trên khu đất ấy để làm nơi học tập. Trong mộng thấy ở bên trên phòng văn có tấm biển đề “Thành tựu xây dựng phòng văn đều do Quỳnh”. Bỗng thấy hai người ở xã ta đi qua nơi ấy, bảo rằng:“Uống nước dòng sông hướng Đinh”. Tỉnh giấc, ông không hiểu nguyên do giấc mộng ra sao. Mới được ba tháng, rốt cục ông bị bệnh mà mất, mộ nguyên táng ở xứ Cồn Chảy thuộc địa phận thôn An Nội, gần giáp với địa giới Mai Hồ, toạ khôn (đầu gối hướng Tây nam) hướng Cấn (mặt hướng về Đông bắc), phân kim Canh Dần Canh Thân. Câu chuyện rất là lạ, nên ghi lại để suy xét. Năm Giáp Thìn, cải táng ở xứ Cha Y. Năm Bính Dần xét thấy nhà mộ không được tốt, nên lại cải táng ở ruộng mạ xứ Đội Mộ, toạ Dần (đầu gối hướng Đông Đông băc) hướng Thân (mặt hướng về Tây Tây nam).
* Vợ của tiên tổ Phan Quýnh là con gái thứ nhất nhà họ Phạm, hiệu là Trang Thục nhụ nhân (tên huý là Thị Quần), tức là con gái trưởng của bà Cố Quân họ Phạm. Bà sinh vào giờ Dần ngày mồng 8 tháng Tám năm Đinh Tị (1797), mất vào giờ Thân ngày 20 tháng Mười năm Canh Tuất (1850), thọ 54 tuổi. Bà sinh được 3 gái 1 trai, con gái trưởng là Phan Thị Ký (gả cho ông Kiều Năng Cường người thôn ta, tục gọi là bà Cố Ngạn, thọ gần 80 tuổi). Hai người con gái sau là Phan Thị Tuy, Phan Thị Trí đều mất sớm. Con trai là Phan Duy Trinh, tức là cha ta vậy. Nghe người ông họ là Hồng lô Thận Trai tiên sinh nói: bà của ta khi tuổi mới cập kê thì về với ông của ta. Sau khi về nhà chồng, bà cẩn trọng tuân theo đạo làm vợ, tôn kính cha mẹ chồng, vỗ về nuôi nấng người đơn độc, trẻ ấu thơ, ai nấy đều ca ngợi bà là người có đức hạnh. Ngày ông của ta qua đời, bà mới 28 tuổi, ở vậy giữ tiết thờ chồng, sớm tối không lìa đạo làm vợ. Gặp thời buổi binh lửa loạn lạc, bà thề chí không đổi khác, trước sau như nhất, gió bụi không thể vấy bẩn. Bà giỏi làm cho của cải phát triển lên, lại chịu khó chỉnh đốn việc nhà. Sau khi chồng chết, các em chồng phần nhiều còn non trẻ, chưa phải lo việc lấy vợ gả chồng. Phàm mọi việc bà đều giỏi trù tính sắp đặt, việc gì cũng góp sức với hai cụ, sinh kế của gia đình nhờ đó đều được đâu vào đấy, thật không hổ là con dâu trưởng trong nhà. Bà cần cù, tằn tiện, tự cai quản một sản nghiệp lớn. Cơ ngơi được phát triển như thế, đều là do công sức của bà. Chẳng làm gì mà lại thành ra làm, ấy là do trời giúp vậy. Chẳng may bà chết không phải bởi mệnh số. Ngày 20 tháng Mười năm Canh Tuất (bấy giờ Liễu mới 6 tuổi), thuyền bà đi đến chỗ bến đò Cửa miếu thì sóng gió nổi lên dữ dội. Thuyền bị lật, người đi trên thuyền đều bị chết đuối, lúc tìm thấy thi thể thì bà đã chết rồi. Mỗi khi nhớ lại chuyện ấy, ta không khỏi buồn bã, thở than. Sau khi bà mất, mọi người đều xót thương, việc tang tế rất chu đáo. Mộ táng ở xứ Đội Mộ, toạ Canh (đầu gói hướng Tây Tây nam) hướng Giáp (mặt hướng về Đông Đông bắc), phân kim Canh Thân – Canh Dần.
1.2 Tiên tổ Phan Văn Nhã tự Thiếu khanh giữ chức Hồng lô, sung làm Quốc sử quán toản tu. Ông tên chữ là Chính Phủ, hiệu là Thận Trai tiên sinh Phan phủ quân (tên huý là Giám), là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Duy Tiến (đời 08). Ông sinh năm Nhâm Tuất (1802), mất vào ngày 15 tháng Hai năm Đinh Sửu (1877), hưởng thọ 76 tuổi. Ông là người kính yêu cha mẹ, nhường nhịn anh em, chuyên cần học tập. Khoa Mậu Tí (1828), ông từ Tú tài đỗ Cử nhân; khoa thi Hội năm Kỉ Sửu (1829), ông đỗ Phó bảng. Trải qua các chức Tri phủ phủ Qui Nhơn, Lang trung bộ Lễ, án sát Quảng Trị. Rồi vì phạm lỗi, bị phát vãng đi An Giang, sau được trên ban ơn chuẩn cho khôi phục, bổ làm Giáo thụ phủ Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá, quyền Đốc học Thanh Hoá. Bởi có mẹ già, ông làm đơn xin nghỉ để về phụng dưỡng mẹ. Sau khi mẹ mất, ông lại được bổ làm Sử quán toản tu, thăng Hồng lô tự Thiếu khanh, nhưng vẫn sung làm Toản tu. Được ít lâu, ông nghỉ dưỡng bệnh, rồi do có tuổi mà mất ở nhà.
* Vợ cả của Người là con gái của cụ Tiến sĩ Tế tửu Phan Hầu (giỗ ngày 17 tháng Tư) người thôn An Hội xã ta, sinh con trai là Phan Văn Huyễn (6 khoa đỗ Tú tài, giỗ ngày mồng 3 tháng Giêng); con gái là Thị Xuân (gả cho Tú tài Phan Đồng Tiếu, con trai của quan Tri huyện Thiên Bản, người xã An Trung).
* Vợ lẽ là bà Phạm Thị Đặc người huyện Lôi Dương phủ Thọ Xuân, sinh con trai là Phan Văn Cơ (đỗ Tú tài, là ấm sinh trường Giám gọi là đồ Đông, giỗ ngày mồng 7 tháng Giêng); con gái là Phan Thị Muội (gả cho ông đồ Mặc người xã Dị ốc huyện Hương Sơn, giỗ ngày 12 tháng Mười hai); con gái là Phan Thị Cheo (đến ở quê mẹ, lấy chồng người tỉnh Nam Định, ngụ cư ở huyện Lôi Dương tỉnh Thanh Hoá).
* Vợ lẽ của Người tên là cố Hoan, toàn sinh con gái (có một người con gái tên là cô Nguyệt gả cho người xã Mỹ Dụ (?).
* Vợ lẽ của Người tên là Phạm Thị Viêm sinh được 1 trai là Phan Văn An (nhà nghèo, đến tỉnh Hưng Yên, lấy con gái của ông Bộ Vị người thôn Trinh Nguyên đình ta làm vợ, sinh được 1 trai là Phan Văn Duy, hiện sống ở tỉnh Hưng Yên).
* Vợ lẽ của Người tên là cố Tư, không có con (giỗ ngày mồng 9 tháng Chín).
* Vợ lẽ của Người không rõ họ tên. Nguyên do năm ông đến An Giang, có lấy một người thiếp, sinh con trai là Phan Văn Thành, trước nay vẫn sinh sống ở An Giang, không về quê quán, nay nghe tin vẫn còn sống, chỉ không có con trai, phỏng chừng cũng đã 70 tuổi.
1.3 Tiên tổ Phan Văn Phong tự là Nghi Trai hiệu là Đông Xuyên lão hoạn Phan phủ quân (tên huý là Kính) là con trai thứ 3 của tiên tổ Phan Duy Tiến (đời 08). làm Quyền Tri phủ phủ Bình Giang rồi xin nghỉ để dưỡng bệnh. Người sinh năm ất Sửu (1805), mất năm Bính Tuất (1886), thọ 82 tuổi. Giỗ ngày mồng 7 tháng Mười. Ông là người chất phác chân thực, hiền lành hoà nhã. Đỗ Tú tài khoa Giáp Ngọ (1834); đến khoa Đinh Dậu (1837), ông cùng em là Phan Đình Tuyển đều đỗ Thự Cử nhân Hương khoa; khoa Canh Tí (1840) ông lại đỗ Cử nhân. Trải làm quan Tri huyện ở hai huyện Cam Lộ, Bố Trạch, tiếp đó được thăng làm Tri phủ phủ Bình Giang, sau xin về nghỉ dưỡng bệnh rồi mất ở nhà.
* Vợ cả của Người là con gái của cố Thủ chỉ Viên người thôn ta (con gái thứ 2 nhà họ Phạm, hiệu là Trang Khiết nghi nhân, giỗ ngày 14 tháng Chín), sinh được 2 trai 4 gái. Con trai là Phan Văn Đàm (tục gọi là ông Viên Đàm, giỗ ngày 29 tháng Bảy); Phan Văn Nhu (tục gọi là cậu hai Giới, lại gọi là ông Tĩnh, giỗ ngày mồng 2 tháng Mười). Con gái là Phan Thị Yến (gả cho Cử nhân Nguyễn Đức Hậu người xã Trung Cần tỉnh Nghệ An làm kế thất, tục gọi là bà cố Tiết), Phan Thị Anh (gả cho Tú tài Vũ Xuân Vinh là con trai ông bá hộ Thư người thôn Trinh Nguyên đình ta, tục gọi là bà Bộ Tả, hiện nay có con trai tên là Đề Trì); Phan Thị Vũ (gả cho con trai trưởng của quan thị Trần người thôn ta tên là cậu Viên Hoàng, tục gọi là cố Chắt Hoàng, nay đã ngoài 70 tuổi); Phan Thị Điểu (gả cho con trai của quan Lang trung Hoàng Chính người thôn ta là Hoàng Cao Khải, đỗ Cử nhân làm quan đến Võ hiển điện Đại học sĩ, tước Diên Mậu Quận công, sinh con trai là Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng Phu. Mạnh Trí làm Tổng đốc Nam Định thăng làm Hiệp biện trí sự; Trọng Phu hiện lãnh chức Tổng đốc Hà Đông, hàm Thái tử thiếu bảo).
* Vợ lẽ của Người là cố Tình sinh được 2 gái (1 người gả cho người thôn ta, tục gọi là bà Cựu Ngân; 1 người gả cho người thôn An Trung, tục gọi là cô Câu Thiếp).
* Vợ lẽ của Người cô Thiên con gái thứ 2 nhà họ Nguyễn (giỗ ngày 29 tháng Sáu), sinh được 1 gái là Phan Thị Viết tục gọi là bà Cửu Luận (gả cho con trai của quan Đốc Du ở thôn Tùng ảnh xã Việt An tên là Cậu Luận. Sinh được 1 gái, tuy có chồng nhưng bị bệnh không sinh nở được. Nay bà Cửu về ở với quan Thượng tại Hà Đông), con trai là Phan Văn Bân (làm Thông phán ở Kiến An rồi về hưu)(1).
* Vợ lẽ của Người tên là mụ Quyết, không có con cái.
1.4 Tiên tổ Phan Đình Tuấn hiệu là Song An Dật Tẩu Phan phủ quân (tên huý là Mỹ) là con trai thứ tư của tiên tổ Phan Duy Tiến (đời 08). Được phong chức Hàn lâm viện Thị giảng, Người sinh năm Canh Ngọ (1810), mất ngày 16 tháng Mười năm Quý Mùi (1883), thọ 74 tuổi. Vốn là người cứng rắn, thẳng thắn, không chịu dua theo với đời. Khoa thi năm Giáp Ngọ (1834), ông cùng anh là ông Văn Phong đều đỗ Tú tài; khoa thi năm Canh Tí (1840) lại đỗ Tú tài ; từ đó về sau có vài lần dự thi nữa nhưng không đỗ, ông lui về dạy dỗ con cháu, phần nhiều thành đạt (con trai là Phan Văn Dư, cháu là Phan Xuân Điện, con trai là Phan Hải Châu, cháu họ là Phan Đình Phùng, Phan Đình Vận, đều do ông dạy dỗ). Phương pháp dạy của ông rất nghiêm: thường ngày đọc sách, ắt là bắt con em theo từng đoạn mà giảng giải cho rõ ràng, ông ở trên nghe giảng thấy còn thiếu hoặc không thông văn mạch thì tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà đánh roi cho đương sự biết hổ thẹn. Cách đối xử với con em trong nhà không giống như cách ông đối xử với các học trò ông dạy khác. Với tất cả những người nắm quyền chính trong làng, nếu có sai xót gì ông đều bảo thẳng cho biết, không chịu dua theo người quyền thế. Ông đặt ra kho nghĩa thương , được triều đình ban cho tờ sắc khen thưởng là Hàn lâm cung phụng ngự, lại được ban tấm biển vàng đề bốn chữ “Mĩ tục khả phong”. Ông hưởng thọ 74 tuổi, không bệnh tật gì mà qua đời.
* Vợ cả của Người là con gái của Tri huyện Bùi Đình Tán người thôn An Hội xã ta, được ban tờ cáo văn tặng hàm Tòng ngũ phẩm Nghi nhân. Bà giỗ ngày 26 tháng Chín, sinh được 1 trai là Phan Văn Dư (đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ, làm quan đến chức Tuần phủ Quảng Trị Quảng Bình).
* Vợ lẽ của Người là con gái họ Đinh người thôn Xa Lang huyện Hương Sơn (bà sinh năm Giáp Tuất, giỗ ngày mồng 7 tháng Sáu năm Giáp Thân), không sinh nở được.
* Vợ lẽ của Người tên là cố Thuý (giỗ ngày mồng 4 tháng Tư), sinh được 1 gái (gả cho con trai của ông Nhự Phương người thôn ta. Bà tên là đồ Tư Thuý, tục gọi là cô đồ Tư Thuý).
* Vợ lẽ của Người là con gái họ Lương người thôn Thượng Tứ xã Bùi Xá (giỗ ngày mồng 6 tháng Mười), sinh được 1 trai 1 gái. Con gái là Phan Thị Hạt (gả cho ông cụ Biền người xã An Trung, thi đỗ Tú tài. Cụ Biền lại có con trai tên là thày Tú Duyên), 1 trai là Phan Hải Châu (thi đỗ Tú tài khoa Bính Ngọ).
* Vợ lẽ của Người tên là Mụ Duệ (giỗ ngày 29 tháng Bảy), sinh được 1 trai là Phan Đăng Khuê.
* Vợ lẽ của Người tên là Thị Phê, sinh được 1 trai tên là Phan Văn Chương.
* Vợ lẽ của Người là Mụ Thứ, không có con.
1.5 Tiên tổ Phan Đình Tuyển Tên tự là Thuấn Cử, thuỵ là Trang Khải, hiệu là Văn Xuyên Phan hầu (tên huý là Quế) Người là con trai thứ 5 của tiên tổ Phan Duy Tiến (đời 08). Được truy tặng chức Tuần phủ Lạng Sơn Cao Bằng. Người sinh năm Giáp Tuất (1814), mất ngày 14 tháng Ba năm Giáp Tí (1864). Ông là người rộng rãi ôn hoà, nghiêm trang ngay thẳng. Khoa thi năm Đinh Dậu (1837), ông cùng anh là Phan Văn Phong cùng đỗ Cử nhân khoa thi Hương; khoa thi năm Canh Tí (1840) đỗ Tú tài; khoa thi năm Quý Mão (1843) lại đỗ Cử nhân; khoa thi Hội năm Giáp Thìn (1844) liên tiếp đỗ Phó bảng. Trải làm quan Đồng Tri phủ phủ Thiên Phúc, án sát tỉnh Bắc Ninh, Phủ doãn phủ Thừa Thiên, sung làm Tán lý quân vụ Bắc Kỳ, tạm lãnh chức Tổng đốc Bắc Ninh, sau đổi lãnh chức Tuần phủ Lạng Sơn, tập hợp chỉnh đốn binh mã đi tiễu trừ bọn phỉ. Ngày 12 tháng Ba ông tiến quân, gặp và giao tranh với phỉ đến một ngày một đêm, không chống cự nổi, ít lâu sau thì tử tiết ở trong trận, sau được truy tặng chức Tuần phủ Lạng Sơn Cao Bằng.
* Vợ cả của Người là con gái trưởng của Tiến sĩ Thượng thư Phan Hầu người thôn Tùng ảnh xã Việt An, (hiệu là Từ ý phu nhân, rất là hiền lành, chưa từng ghen ghét ai), sinh được con trai là Phan Đình Thông (lúc nhỏ tên là Hoè, đỗ Tú tài, làm Chánh quản đốc hoả thuyền; Phan Đình Thuật (lúc nhỏ tên là Đống, đỗ Cử nhân, làm Giáo thụ phủ Anh Sơn), con gái là Phan Thị Đại (gả cho Cử nhân Lê Văn Thống người thôn Trung Lễ tổng Văn Lâm, tục gọi là bà cụ Thị, có con là Cử nhân Lê Văn Nhiễu, Giải nguyên Lê Văn Uẩn), con trai là Phan Đình Tuân (lúc nhỏ tên là Đào, lấy con gái của quan Thượng Đông người thôn nhà làm vợ, sinh được 1 trai tên là ông đồ Đồng, tục gọi ông ấm Tôn. Về sau bà mẹ cải giá lấy Cử nhân Lân ở thôn Bích Triều, tục gọi là bà cố Phó), con trai là Phan Đình Phùng (lúc nhỏ tên là Điều, đỗ Tiến sĩ Đình nguyên(2), gặp loạn lạc chạy vào núi, bị bệnh mà mất), con trai là Phan Đình Vận (lúc nhỏ tên là Lê, đỗ Phó bảng, làm Tri phủ phủ Xuân Trường).
* Vợ lẽ của Người tên là thím Kinh họ Bạch (người ở thành Phú Xuân, không có con cái, thọ 80 tuổi, giỗ ngày 14 tháng Tư, mộ táng tại xứ Đường Quan).
* Vợ lẽ của Người tên là cố Duệ Liên (giỗ ngày mồng 5 tháng Giêng), sinh được con trai là Phan Đình Lan, tục gọi là cậu Duệ Bảy (giỗ ngày mồng 8 tháng Tư), con trai là Phan Đình Duật (lúc nhỏ tên là Lương) tục gọi là cậu ấm Tám (giỗ ngày mồng 8 tháng Mười hai).
* Vợ lẽ của Người tên là cô Nhị (người xã Việt An, giỗ ngày mồng 10 tháng Hai) sinh 1 trai là Phan Đình Thực, lại tên là Đình Truy, tục gọi là câu ấm Chín có vợ là con gái ông bá hộ Thư người thôn Trinh Nguyên, sinh được 1 trai tên là ông đồ ấm. Ông đồ ấm có vợ, người vợ này sau cải giá lấy người khác. Về sau ông đồ ấm ra Bắc Kỳ, bị bệnh mà mất, giỗ ngày 16 tháng Mười hai.
* Vợ lẽ của Người tên là cố Vân, người xã Vạn Vân tỉnh Bắc Ninh, không có con, giỗ ngày 19 tháng Chín, mộ táng tại Vũ Quang.
1.6 Tiên tổ Phan Thị Khánh là con gái của tiên tổ Phan Duy Tiến (đời 08) Người là chánh thất của ông họ Kiều, Chồng bà là Kiều Năng Thiện, tục gọi là ông Đầu xứ Thiện. Bà sinh được 3 trai là ông đồ Trạch Dụng, ông đồ Quát và anh Câu. Chỉ có ông đồ Quát có 1 con trai tên là Thiều, ra Bắc Kỳ, bị bệnh mà mất tại Sơn Tây. Nay cũng không có con cháu nối dõi.
2.1 Tiên tổ Phan Duy Hựu tự là Trợ Phủ, thuỵ là Chất Phác phủ quân (tên huý là Tuỳ) là con trai trưởng của tiên tổ Phan Duy Sử (Sứ) (đời 08), làm Xã chính trong ấp sinh năm (?), mất ngày 21 tháng Tám. Người bình sinh chân chất thực thà, tằn tiện không xa xỉ, làm nghề buôn bán bè gỗ.
* Vợ của Người là bà nhụ nhân con gái thứ nhất của nhà họ Kiều (giỗ ngày mồng 1 tháng Sáu), sinh được con trai trưởng là Phan Duy Khai (giỗ ngày mồng 7 tháng Tư), vợ là mụ Đồ Lai (giỗ ngày 28 tháng Tám), sinh được 1 gái gả cho con trai của cụ Mọc Thêm họ Kiều người thôn ta. Con trai thứ 2 là Phan Duy Mậu, tục gọi là ông đồ Hai Lai (giỗ ngày 26 tháng Mười một) có 2 người vợ, sinh được 1 gái (gả cho con trai trưởng cụ đồ Toại người thôn Tùng ảnh). Con trai thứ 3 là Phan Duy Đoan tục gọi là ông cụ Ba, vợ là con gái của ông đồ Lương họ Kiều người thôn ta, sinh được 1 trai là Phan Duy (?), vợ là (?). Con trai thứ tư là Phan Duy Huyên, tục gọi là ông Ngoạn (giỗ ngày mồng 9 tháng Sáu), vợ là con gái của cụ Phạm Nhân người thôn ta, sinh được 1 trai, mất sớm, hiện còn 1 người con gái. Lại có người con gái là Phan Thị Viết (gả cho ông Lâm họ Dương người trong thôn). Chi này hiện nay chỉ có ông cụ Ba lo việc thờ cúng.
2.2 Tiên tổ Phan Duy Huy tên tự là Trọng Quang, tên thuỵ là Cương Trực phủ quân là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Duy Sứ ( đời 08) làm Xã chính, kiêm Kỳ lão hưởng thọ 72 tuổi. Ông sinh năm (?), mất ngày mồng 10 tháng Năm năm (?), cả đời chất phác chân thực, cần cù tằn tiện, làm nghề buôn bán bè gỗ và cày cấy ruộng vườn.
* Vợ của Người là con gái thứ nhất nhà họ Phạm, hiệu là Từ Huệ, thọ 76 tuổi (giỗ ngày 12 tháng Tư), sinh được 5 trai: trưởng là Phan Duy Ve, tục gọi là ông Duệ ý; con trai thứ 2 là Phan Duy Siêu, tục gọi là ông Đề Hai; con trai thứ 3 là Phan Duy Duệ, tục gọi là ông Trí; con trai thứ 4 là Phan Duy Dụy, tục gọi là ông Đồ Sáu. Con trai thứ 5 là Phan Duy Đa, tục gọi là cháu Mười; 1 gái là Thị Bốn, gả cho Bùi Xuân Đường người thôn ta.
2.3 Tiên tổ Phan Duy Diệu tục gọi là Chú Củng là con trai thứ 3 của cụ Phan Duy Sử (Sứ) (đời 08) là Khoá sinh trong ấp, Người có chút học vấn, thường ra Bắc Kỳ dạy học nuôi miệng, sau cũng lưu lạc ở Bắc Kỳ, không biết còn sống hay đã mất
2.4 Tiên tổ Phan Thị (?) là con gái tiên tổ Phan Duy Sứ (Sử) (đời 08) gả cho ông Phạm Văn Chương người thôn ta, bà tục gọi là cô đồ Chương.
3. Tiên tổ Phan Duy Hinh tục gọi là chú Ba Đặc, là con trai duy nhất của tiên tổ Phan Duy Cầu (đời 08). Ông lưu lạc ở Bắc Kỳ, không biết còn sống hay đã mất. Tiên tổ Phan Duy Cầu lại có 2 người con gái là Thị Dực, Thị Chức (Thị Chức tức cô Chánh Thoại). Chi này nay không có người tiếp nối việc thờ cúng.
4. Tiên tổ Phan Duy Lịnh tự là Dưỡng Phủ phủ quân (tên huý là Toàn) là con trai của tiên tổ Phan Duy Tiếu (đời 08), tự là Khắc Loại làm Lý trưởng, kiêm Ngoại uỷ Phó tổng tổng nhà, giỗ ngày 14 tháng Ba,. Ông có chút học vấn, lớn lên theo anh họ là ông Lai làm nghề buôn bán, lại ra làm Lý trưởng.
* Vợ cả là con gái của bà cố Trạc họ Bùi người thôn ta (bà cụ Lang là chị em với bà ấy), con gái thứ nhất nhà bọ Bùi, sinh được 1 trai là Phan Duy Dược, 3 gái (1 người gả cho Tri Hậu là con trai ông Tổng; 1 người gả cho Tú tài Vũ Văn Chúc là con trai của quan phủ Thiên Trường người thôn Trinh Nguyên, nay có con trai là Vũ Văn Chấp đỗ Cử nhân, Vũ Văn Viên đỗ Tú tài, sau đỗ Cử nhân, học cùng trường với ông đồ Duệ ; 1 người gả cho con trai ông Tổng Tuân, tên là bà cửu Thịnh Quả. Phan Duy Dược lấy vợ, sinh được 2 trai: 1 người tên là Bang Phương theo hầu cụ Đình mà chết, 1 người tên là Chương đến sinh sống ở Thanh Hoá nay cũng đã chết).
* Vợ lẽ của Người là con gái thứ nhất nhà họ Nguyễn hiệu là Cần Kiệm, sinh được 1 trai là Phan Duy Huệ tục gọi là cụ Trung (hiện nay ngụ cư ở quê vợ tại xã Thịnh Quả).
Chi này là chi phái của kỵ Duy Đức. Kỵ Duy Đức sinh được 3 trai, chỉ có người con trai út là cụ Khắc Loại sinh được 1 con trai là ông Duy Lịnh. Ông Duy Lệnh sinh được 2 con trai là Phan Duy Dược và Phan Duy Huệ còn có con cháu (ngoài ra đều thiếu người nối dõi).
ĐỜI THỨ MƯỜI
1.1 Tiên tổ Phan Duy Trinh (cha của tiẻn tổ Phan Văn Liễu) tên tự là Thúc Độ, thuỵ là Mẫn Cán Phan phủ quân (tên huý là Chuỳ) là con trưởng nối dõi của ông Phan Doãn Địch (Phan Quýnh (đời 09)) Ông nguyên là học trò thi các khoa, Tổng mục tổng nhà, Người sinh ngày 30 tháng Mười hai năm Kỷ Mão (1819), mất vào giờ Tuất ngày 13 tháng Bảy năm Giáp Tí (1864), hưởng thọ 46 tuổi. Là người hoà nhã, trời phú cho tính chất phác đôn hậu. Lúc mới 6 tuổi đã mất bố, chỉ còn có mẹ để nương tựa. Cha ngày đêm theo việc học hành, cần cù, cẩn thận, chăm lo phụng sự nhà thờ tổ tiên. Bà nội tuổi đã cao, các chú thì lần lượt ra làm quan ở xa, cha sớm tối không bao giờ quên tới thăm hỏi sức khoẻ của bà. Năm Canh Tuất (1850), mẹ ta thình lình qua đời (lúc đó cha ta mới 32 tuổi). Cha một mình gắng sức gánh vác việc nhà. Năm Bính Thìn (1856) cha chịu tang bà nội, trước sau đều được hoàn tất ổn thoả. Thuở thiếu thời cha đã nối nghiệp tổ tiên, cần cù tằn tiện mà giữ vững nghiệp nhà, không để cho sa sút, sứt mẻ. Về việc theo đòi khoa cử, cha đã tranh thủ được sự dùm giúp của thầy, của bạn, việc học nhờ đó mà phát triển tốt đẹp. Cha luôn lo sao trên thì đền đáp cái chí của tổ tiên, mà dưới thì con cháu được no đủ. Giả sử trời cho mượn thêm tuổi thì tấm lòng ấy của cha còn được đẩy tới. Chưa nói, năm Giáp Tí (1864), nhận được tin ông chú ruột là Tuần phủ Lạng Sơn Cao Bằng Phan Hầu tử tiết ở Kinh, cha ta nói: “Chú cũng như cha, há có thể thản nhiên được”. Bèn cùng với các con của ông Hầu ra Bắc đưa linh cữu chú về nhà. Mới được mười ngày, cha bỗng bị bệnh, rồi khoảng 5, 6 ngày nữa thì qua đời ở nhà (năm ấy con là Liễu mới đi thi, ngày mồng 10 tháng Bảy tới trường xem bảng thấy không đỗ, ngày 11 lập tức trở về phụng dưỡng cha ốm). Mộ táng ở xứ Cầu Bách thôn An Nội, toạ ất (đầu gối hướng Đông Đông nam)(1) hướng Tân (mặt hướng về Tây Tây bắc), phân kim Đinh Mão Đinh Dậu. Năm Đinh Mùi (1907) xét thấy bên trái phía chân ngôi mộ nước tích lại thành vũng bùn, nghĩ rằng phải về tìm thầy địa lý để cải táng đến chỗ khác. Nhưng khi tìm được chỗ đất mới và định ngày tiến hành việc cải táng, thì đêm đó có người đầy tớ già tên là ông Thủ hạng Vận nằm mơ thấy cha ta về, bảo người đầy tớ ấy nên nói với Liễu ta là phần mộ ấy đã yên rồi, không cần cải táng, chỉ nên dời sang bên phải nửa huyệt mà thôi. Đến khi mở phần mộ quả thấy một nửa bên phải quan tài đã thụ khí, một nửa bên trái quan tài thì bùn nước ứ đọng. Liễu bèn y như những điều chỉ bảo trong mộng, không dám dời mộ táng đi nơi khác, nhưng xin thầy địa lý cứ làm như trong mộng, dời sang bên phải nửa huyệt, toạ hướng như cũ, phân kim Tân Mão – Tân Dậu. Hai bà vợ chánh thất, thứ thất của cha sinh được trai gái mỗi bên 5 người.
* Vợ cả của Phan Duy Trinh là con gái thứ nhất nhà họ Hoàng, hiệu là Từ Thuận nhụ nhân (tên huý là Hoàng Thị Niệm), là con gái trưởng của Tú tài họ Hoàng Hoàng Chí Đạo người thôn ta (ông Hương Câu, ông Đô Thiều, ông huyện Phiên, bà cố Bá Nghĩa đều là anh chị em của bà). Mẹ sinh giờ Thìn ngày 13 tháng Bảy năm Giáp Tuất; mất giờ Tuất ngày Tuất 20 tháng Tuất tháng Chín năm Bính Tuất (niên hiệu Đồng Khánh) hưởng thọ 73 tuổi. Mẹ ta là người hiền lành ôn hoà, bản tính trung hậu chất phác. Năm 15 tuổi về nhà chồng, phàm mọi việc đều vâng theo sự chỉ dẫn dạy bảo của mẹ chồng, không dám trái ý hoặc vượt quyền. Ban đầu cũng khó khăn trong chuyện con cái, sinh nhiều nhưng ít nuôi được. Chồng lại là con một. Mẹ chồng khuyên nên thu nhận vợ bé. Vâng theo ý mẹ chồng, mẹ bèn đến xã Bùi Xá hỏi con gái trưởng của ông Miễn về làm thiếp cho cha, đó là mẹ thứ của ta, con gái thứ nhất của nhà họ Nguyễn vậy. Mẹ sinh con gái trưởng là Phan Thị Phán (giỗ ngày 28 tháng Mười một. Gả cho đích tôn của Tiến sĩ Phan Hầu, con trai trưởng của Phan Ty vụ là Tú tài Phan Bá Tuân, người thôn Tùng ảnh, xã Việt An Hạ, tổng Việt An. Lần lượt sinh con trai, rồi con gái, nhưng đều mất sớm cả. Nay có Tú Nho và cháu Khản là con của người thiếp tên là Kỳ Phí nhận việc thờ cúng. Tục gọi là “bà phủ Đoàn” chính là bà vậy)(1). Con trai trưởng là Phan Văn Liễu (giỗ ngày 21 tháng Ba), con gái thứ là Phan Thị Khoản (giỗ ngày 22 tháng Mười hai. Gả cho con trai trưởng của ông Tú Toán, người thôn Tùng ảnh, xã Việt An. Tục gọi là Bà Câu Bộ. Nay sinh được Lý câu Bộ, là con trai của bà vậy). Con trai thứ là Phan Văn Thuyết (tên huý là Nhuệ, bị bệnh mất vào giờ Mùi ngày mồng 6 tháng Ba năm Tân Dậu Khải Định 6 (1921)). Con gái út là Phan Thị Đán (gả cho ông đồ Tính họ Bùi người thôn An Hội xã ta, sinh ra đồ Tính, đồ cháu Thiệp, đồ Nghĩa. Bà tục gọi là bà cháu Tính).
* Vợ lẽ của Phan Duy Trinh là con gái thứ nhất nhà họ Nguyễn (giỗ ngày 15 tháng Tư), sinh con trai là Phan Văn Tùng (sau đổi là Văn Công), sinh năm Bính Ngọ, mất ngày mồng 9 tháng Tư năm Canh Dần. Lấy vợ người thôn An Mĩ, sinh ra tên Luận, tên Cán, tên Nhận, con gái tên là mẹ Lâm, là con Em. Văn Công trước có theo ông chú họ là cụ Đình (Phan Đình Phùng) khởi nghĩa, tục gọi là ông Bang Luận, sau bị bắt giữ ở đồn Linh Cảm, bị bệnh mà chết. Ông Luận giỗ ngày mồng 9 tháng Tư, bà Luận giỗ ngày 26 tháng Mười. Tên Luận sinh được 1 gái, tên Cán sinh được con trai con gái...hiện ngụ cư ở quê vợ tại Nga Sơn Thanh Hoá. Tên Nhận lưu lạc ở Bắc Kỳ, chưa về ; Con Em thì gả cho người ở Thanh Hoá). Con gái là Phan Thị Điều (giỗ ngày 13 tháng Giêng. Gả cho cháu của quan Giáo Thức, con trai trưởng của ông Tú Ôn ở thôn Tùng ảnh xã Việt An là Phan Văn Tao tục gọi là ông Đầu xứ Thiện, bà Đầu xứ Thiện, sinh được con trai tên là Ngoạt Quang, và con gái là (?)). Con trai là Phan Văn Bách (sinh năm Tân Mùi, mất năm Giáp Tuất, giỗ ngày 28 tháng Tám, lấy người ở xã Nghĩa An, sinh được con trai là Phan Thượng Chí tục gọi là ông đồ Lạc, giỗ ngày 12 tháng Sáu. Ông đồ Lạc lấy con gái của ông đồ Thân ở thôn ta làm vợ, giỗ ngày 21 tháng Mười hai, vợ chồng theo cùng bà mẹ goá đã tái giá vào sống ở kinh thành Phú Xuân, đều bị bệnh mà chết ở thành Phú Xuân, người anh tên là Cán đã đem hài cốt của hai vợ chồng về chôn cất ; con gái là Thị Hạt gả cho người ở thôn Trinh Nguyên, cũng theo mẹ đến thành Phú Xuân, bị bệnh mà chết. Phan Văn Bách vào năm Giáp Tuất theo người ở Hương Sơn tên là Đội Lâu giết quân tả đạo(1), sau bị bắt rồi chết, giỗ ngày mồng 9 tháng Tám). Con gái là Phan Thị Triệu (giỗ ngày29 tháng Hai năm Tân Hợi, gả cho con trai thứ của quan Giáo Thiếp người xã Việt An, tục gọi là cụ Thư, sinh được 2 trai 1 gái). Con trai là Phan Duy Dương (giỗ ngày 28 tháng Bảy, lấy em gái của ông Tú Gia người thôn An Hội làm vợ. Về sau Duy Dương theo đảng phái của Đội Lâu, bị quan quân triều đình bắt rồi chết, vợ cũng cải giá lấy người khác).
1.2 Tiên tổ Phan Thị Ký tục gọi là bà cố Ngạn, con của tiên tổ Phan Quýnh (đời 09), là chánh thất của cựu Lý trưởng họ Kiều, sinh được 1 trai 1 gái, con trai gọi là ông Chắt Điềm ; con gái tục gọi là bà Ngạn có con trai gọi là thày Tú Ngạn. Ông Chắt Điềm tên là Kiều Văn Hiên, sinh ra tên Chắt Điềm, tên Duệ Mậu, tên Ba Vi, nay đều nghèo khó, đi nơi khác kiếm sống).
2.1 Tiên tổ Phan Văn Huyễn tên tự là Quang Phủ, thuỵ là Phác Hậu, hiệu là Thái Giang cư sĩ Phan phủ quân (tên huý là Sâm),thường gọi là cụ tú Dê. Người đỗ Tú tài 6 khoa, vào sát hạch để chờ bổ chức. Người là con trai trưởng của tiên tổ Phan Văn Nhã (đời 09), sinh năm Kỷ Sửu (1829) , mất ngày mồng 3 tháng Giêng năm 1878, hưởng thọ 50 tuổi. Tính thích rượu, trình độ học vấn cao, con em trong họ hàng làng xóm phần nhiều nhờ Người gầy dựng cho. Người đi thi hơn mười khoa chưa từng bị trượt lần nào ở trường thứ nhất, người cùng trang lứa đều khâm phục. Chẳng ngờ mệnh vận khó khăn, rốt cục dừng mãi ở hai chữ Tú tài, mà không nhích lên được nữa.
* Vợ của Người là con gái thứ hai của ông Niết đài họ Lê ở thôn Trung Lễ (Giải nguyên Lê Văn Tự, Cử nhân Lê Văn Thống, bà Biện lý Thực, bà cụ Lê Kinh Hương Sơn đều là anh chị em của bà vậy), tên hiệu là Trinh Cần, nhụ nhân, (giỗ ngày 14 tháng Tám), sinh được 2 trai 2 gái. Con trai trưởng là Phan Văn Bính, đi thi đã đỗ trường 1 (lấy con gái của quan phủ Trung Khánh người xã An Trung, sinh được 1 trai là Phan Văn Đôn. Văn Bính chết sớm, vợ cải giá đi lấy người khác, con là Văn Đôn trưởng thành, lấy vợ là con gái của ông Viên Soạn người thôn An Hội, sau đó gặp loạn, Văn Đôn cũng chết sớm, không có con nối dõi). Con trai thứ là Phan Văn Quýnh (lấy con gái của Tú tài Hoàng Khắc Giai. Theo phả họ Hoàng thì người tên là Hoàng Côn tục gọi là cụ Tú Sơn, người thôn ta tên là Hoàng Thị Lan làm vợ, sinh được 1 trai 2 gái. Con trai là Phan Văn Trì tục gọi là đồ Duệ Trì, hiện theo ông Hàn Lừng ( là anh ruột của Mẹ) ra Bắc Kỳ sinh sống bằng nghề nông). Ông Hàn Lừng tên thật là Hoàng Huyên sinh năm 1859. Con gái là Phan Thị Hét (gả cho Đông Khê ở thôn Trung Lễ, gọi là đồ Hoàng. Tục gọi mụ đồ Hoàng Đông Khê là bà vậy). Con gái là Phan Thị Đợt (gả cho con của ông bá hộ Thước ở Thịnh Quả. Nay chị Cháu Mười ở trong thôn là con gái của Thị Đợt vậy). Sau khi bà Dê qua đời, ông Dê lại lấy con gái ông đội Vinh người thôn Trung Lễ làm thiếp, sinh được 1 trai cũng chết sớm.
2.2 Tiên tổ Phan Văn Cơ tên tự là Trọng Đường, thuỵ là Phác Trực Phan phủ quân là con trai thứ hai của tiên tổ Phan Văn Nhã (đời 09), là ấm sinh trường Giám, thi đỗ Tú tài. Sinh năm Bính Thìn ( 1856); giỗ ngày mồng 7 tháng Giêng, hưởng thọ 30 tuổi. Vốn là người chất phác chân thực, ít hoà hợp với người khác. Sau khi bố mất, nhà nghèo, Người lên Kinh vào trường Giám làm ấm sinh, ngày đêm chăm chỉ học tập, không chơi bời. Thi trường ở Kinh đỗ Tú tài, nhưng vẫn ở lại học tập, chờ khoa thi sau. Chẳng may trời keo lận đối với tuổi của Người, nên không được như ý: ít lâu sau bị bệnh mà chết.
* Vợ của Người là con gái của thày tú Mục ở xã Việt An, vào năm Khải Định 4 (1919) được triều đình ban cho một tấm biển “Tiết phụ”), sinh được 1 trai là Phan Khắc Cần, tục gọi Đồ Ngoéc Đông, mất ngày mồng 7 tháng Giêng năm (?). Hiện trông coi nhà thờ tiên tổ Phan Văn Nhã vì người cháu trưởng là Duệ Trì đi ra Bắc làm ăn
2.3 Tiên tổ Phan Văn An là con trai thứ 3 của tiên tổ Phan Văn Nhã (đời 09) (không rõ ngày sinh, ngày mất). Nhà nghèo, Người đến tỉnh Hưng Yên làm người giúp việc. Sau, Người lấy con gái của ông Bộ Vị người thôn Đình ta làm vợ, sinh được 1 trai là Phan Văn Duy, cùng với ông ngoại là Bộ Vị đến sinh sống ở tỉnh Hưng Yên.
3.1 Tiên tổ Phan Văn Đàm, tên tự là Thâm Chi, thuỵ là Chất Trực, hiệu là Tùng Đình chủ nhân Phan phủ quân (tên huý là Hạo), là con trai trưởng của tiên tổ Phan Văn Phong (đời 09), Tri phủ Bình Giang, Người Sinh năm (?), mất ngày 29 tháng Bảy năm (?), Người cả đời hào phóng, có sản nghiệp giàu có. Thuở nhỏ chẳng may mắc bệnh đau mắt mà thành tật. Thích đàn, cờ, thơ, rượu, không mong được tiếng tăm, hiển đạt.
* Vợ cả của Người là Vũ Thị hiệu là Từ Trực nhụ nhân (giỗ ngày mồng 10 tháng Năm), con gái trưởng của cố Bá hộ Thư, người thôn Trinh Nguyên đình ta (giỗ ngày mồng 10 tháng Năm), sinh được các con trai là Phan Văn Trạch (tục gọi là ông Đề Định); Phan Văn Hiệp (tục gọi là Đốc Trang, có con tên là Cháu Trang) ; Phan Văn Châu (tục gọi là Đội Ba) ; các con gái là Phan Thị Hạt (gả cho con trưởng của ông Cử Kỳ Bùi Trí người thôn An Hội, tục gọi là bà Cả Cúc, có con trai tên là cậu Tốn) ; Phan Thị Đặt (gả cho con trai quan Quản đạo người thôn Trung Lễ, tên là ông Bang Cẩn).
* Vợ lẽ gọi là mụ Văn (giỗ ngày 26 tháng Chín), sinh được 2 trai tên là Biện, là Duệ Tín.
* Vợ lẽ gọi là mụ Thập (giỗ ngày 21 tháng Tám), sinh được 2 gái (1 người gả cho ông Bát Thưởng người ở Bái Giang, 1 người gả cho ông Tổng Tảo người ở Hương Sơn).
3.2 Tiên tổ Phan Văn Nhu Tên tự là Thứ Mông, thuỵ là Chất Phác Phan phủ quân (tên huý là Tố) Người là con trai thứ 2 của Tri phủ Bình Giang Phan Văn Phong (đời 09), là Nho sinh, đi thi Hương nhiều lần nhưng chỉ đỗ 2 trường. Sinh năm (?), mất ngày mồng 2 tháng Mười năm (?). Người tuy sinh ra và lớn lên trong gia đình phú quý, nhưng rất có chí trong việc học hành. Hàng năm phụng dưỡng thầy, bạn không tiếc tốn kém. Người khá khó khăn trong việc nối dõi. Có 3, 4 người vợ mà chỉ sinh được 2 trai, 4 gái.
* Vợ cả của Người là con gái quan huyện Thiên Bản, tên hiệu là Trinh ý nhụ nhân (giỗ ngày mồng 8 tháng Ba), sinh được 1 gái là Phan Thị Mười (gả cho Tổng Trinh người xã Bái Đức. Nay đều đã mất).
* Vợ lẽ của Người là mụ Như (giỗ ngày mồng 2 tháng Ba), sinh được 2 trai là Phan Văn (?) tục gọi là đồ Hạt (Hát) Tĩnh, Phan Văn (?) tục gọi là đồ Nuôi.
* Kế thất của Người là chị của ông Tú Quán người thôn Trinh Nguyên gọi là mụ Huyền, không có con.
* Vợ lẽ của Người là con gái của ông Hồ người thôn Trường Xuân gọi là mụ Tiêm (giỗ ngày 24 tháng Ba), sinh được 2 gái là Phan Thị Tám, Phan Thị Chín (Thị Tám gả cho người ở xã Xuân La huyện Nam Đường(1), Thị Chín cũng gả cho người ở xã Xuân La huyện Nam Đường).
3.3 Tiên tổ Phan Văn Bân (Phan Tống Thần) là con trai thứ 3 của Tri phủ Bình Giang Phan Văn Phong (đời 09) hiện được trao chức Kinh lịch ở tỉnh Sơn Tây, thăng làm Thông phán rồi về hưu.
* Vợ cảcủa Người là con gái thứ 3 của ông Cống Huyên người xã An Trung, hiệu là Mẫn Thục an nhân (giỗ ngày mồng 1 tháng Tư), sinh được 3 trai 1 gái. Con trai trưởng là Phan Văn Liên (hiện đang đi thi), thứ là Phan Văn Đại (hiện làm án sát sứ Ninh Bình), thứ nữa là Phan Văn (?), 1 gái là Phan Thị (?) (gả cho ông Ký Quế người Hà Nội).
* Vợ lẽ của Người là con gái thứ nhất nhà họ Trần, không có con.
* Vợ lẽ của Người là người ở Hà Nội, sinh được 1 trai là Phan Văn Thiêm.
4.1 Tiên tổ Phan Văn Dư tên tự là Lỗ Bảo Phan hầu (tên huý là Tân) là con trai trưởng của tiên tổ Song An Phong công Phan Đình Tuấn (đời 09) làm Quyền Tuần phủ Trị Bình, Người sinh năm (?), mất ngày 21 tháng Bảy năm (?), sớm đã mồ côi, may được mẹ kế là bà họ Đinh hiền từ nhân ái, nuôi nấng vỗ về như con đẻ. Được cha dạy dỗ, nên Người ngày đêm chăm chỉ học hành. Khoa Mậu Ngọ Người đi thi đỗ Cử nhân, trải làm quan Tri huyện, Ngự sử thị lang, Tuần phủ rồi già mà mất tại nhà.
* Vợ cả của Người là em gái thày Cử Tùng họ Hoàng người thôn ta, (tên huý là Hoàng Thị (?), giỗ ngày mồng 6 tháng Tư) sinh được 2 trai 2 gái. Con trai là Phan Xuân Điện (nguyên tên là Du, sau đổi là Xuân Điện, đỗ Cử nhân khoa Bính Tý, hiện được trao chức Huấn đạo huyện Hương Trà, thăng chức Thị độc, rồi về hưu). Một con trai là Phan Văn Hành (lấy con gái của ông Tiến sĩ Đốc học họ Phan người thôn ta làm vợ. Hành mới 25 tuổi đã mất, vợ sau lấy chồng khác). Các con gái là Phan Thị Khanh (gả cho con trai ông Tổng Nhương người xã Bùi Xá, tục gọi là bà cụ Hiên. Nay có con trai đỗ Tú tài, gọi là thày Tú Hiên); Phan Thị (?) (gả cho con trai của Tiến sĩ Tổng đốc Phan Hầu người thôn ta, là Cử nhân Phan Trọng Nghị).
* Vợ lẽ của Người là (?) Thị người Hà Nội, tục gọi là bà Tuần Hạ, sinh được 1 trai 2 gái. Con trai là Phan Văn (?) (lấy con gái của ông Hiệp biện họ Cao làm vợ, lại lấy 1 người thiếp là con gái của ông Lý Vấn người thôn An Nội, sinh được 1 trai là Phan Văn Chí. Người vợ nay cũng đã lấy chồng khác). Các con gái là Phan Thị (?) (gả cho con trai của quan Tuần Đinh Nho người xã An ấp huyện Hương Sơn, tục gọi là cậu ấm Trân) ; Phan Thị (?) (gả cho Tiến sĩ Nguyễn Mai người huyện Nghi Xuân, tục gọi là bà Nghi Mai).
4.2 Tiên tổ Phan Hải Châu là con trai thứ của tiên tổ Phan Đình Tuấn (đời 09) đỗ Tú tài khoa Bính Ngọ (qua đời ngày 24 tháng Chín năm Canh Thân, thọ 54 tuổi). Vốn là người kính yêu cha mẹ, nhường nhịn anh em. Học vấn uyên bác, khiêm nhường đối với người ngoài.
* Vợ cả của Người là con gái của Thái thú Thiệu Hoá Thái Khắc Tuy, người thôn Vạn Phúc Đông, sinh được 2 trai: con trai trưởng là Tú tài Phan Hải Tham; con trai thứ là ông đồ Câu Nghiên. 2 gái: con gái trưởng gả cho Cử nhân Mai người thôn An Nội; con gái thứ là (...).
* Vợ lẽ của Người là sinh được 1 trai 1 gái.
4.3 Tiên tổ Phan Văn Khuê.
4.4 Tiên tổ Phan Văn Chương.
5.1 Tiên tổ Phan Đình Thông tự là Thượng Phổ Phan phủ quân (tên huý là Hoè, tự là), là con trai trưởng của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09) dỗ Tú tài, nguyên làm Chánh quản đốc hoả thuyền, được khôi phục làm Trứ tác, Người sinh năm ất Mùi, mất ngày 28 tháng Năm năm Đinh Hợi. Bản tính cứng rắn, ngay thẳng, thích làm điều nghĩa, không chịu luồn cúi ai.
* Vợ cả của Người là con gái ông ký Huyện ở tổng Nam Kim, sinh được 3 trai 2 gái đều mất sớm, chỉ còn 1 gái là Phan Thị (?) (nguyên gả cho con của Thái Khắc Tuy ở thôn Trường Xuân, gọi là chị cả Thượng, sau lại gả cho con của quan phủ Tinh ở thôn An Mỹ, gọi là chị ấm An Mỹ).
* Vợ lẽ của Người là cố Bôn (Thọ 60 tuổi, sinh được 1 trai 1 gái. Trai tên là Bôn, bị bệnh mà chết ở tỉnh Bình Định; con gái gả cho ông Đệ Chín người Thịnh Quả. Giỗ ngày 17 tháng Sáu).
* Vợ lẽ của Người là người Thanh Hoá (sinh được 1 gái, sống ở Thanh Hoá).
* Vợ lẽ của Người là người Hà Nội (sinh được 1 gái, cũng sống ở Hà Nội).
* Vợ lẽ của Người ở thôn Dị ốc (sinh được 1 trai tên là Bôn Con, sống ở quê mẹ đẻ. Về sau có tin bà thiếp này đã cải giá lấy người khác).
5.2 Tiên tổ Phan Đình Thuật, tự là Sư Bành, hiệu là Thái Chử Phan phủ quân (tên huý là Đống), là con trai thứ hai của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09), làm Giáo thụ phủ Anh Sơn. Người sinh năm Kỷ Hợi, mất ngày 30 tháng Hai năm Tân Tỵ.
* Vợ cả của Người là con gái thứ nhất của Cử nhân Hoàng Văn Thự người thôn ta, hiệu là Thục Thận an nhân (giỗ ngày 20 tháng Sáu), sinh được 1 trai 1 gái. Con trai là Phan Đình Phương, tục gọi là cậu Duệ Quyền ; con gái là Phan Thị Nhiên, tục gọi là bà Cả Khiêm (gả cho con của Cử nhân Phạm Thế ích người thôn ta là Phạm Tất Dự. Bà Cả Khiêm cũng chỉ sinh được 3 con gái).
* Vợ lẽ của Người là người thôn Thọ Tường, sinh được 1 trai gọi là cậu Hai Đích (bị bệnh mà chết ở tỉnh Bình Định, giỗ ngày 29 tháng Hai).
5.3 Tiên tổ Phan Đình Tuân, tự là Trọng Tuần Phan phủ quân (tên huý là Đào), là con trai thứ 3 của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09). Người sinh năm (?), mất ngày 28 tháng Tư năm Giáp Tí. Năm Giáp Tí nghe tin cha tử tiết, Người ra Bắc đón linh cữu, nhân đó bị phát bệnh đậu, phải ở lại nhà bố mẹ vợ tại Hải Dương, thuốc thang chữa trị nhưng không khỏi, được ít lâu thì mất.
* Vợ của Người là Phan Thị Hạnh, con gái trưởng của Tiến sĩ Tổng đốc Phan Hầu người thôn ta, sinh được 1 trai là Phan Đình Nghinh tục gọi là cậu ấm Tôn (ấm Tôn trước theo chú ruột là Đình nguyên Tiến Sĩ Phan Đình Phùng đại nhân vào núi khởi nghĩa, sau lại ra đầu thú, bị ép đưa về Kinh mà chết. ấm Tôn lấy con gái của Tú tài Mai Trọng Cung người thôn ta, sinh được con trai là Phan Đình Kim, hiện ở Nam kỳ lục tỉnh); con gái gọi là mẹ cháu Giám. Phan Thị Hạnh sau cũng cải giá, lấy quan Cử Lân ở thôn Bích Triều, tục gọi là bà cố Phó (mụ ấm Tôn giỗ ngày 24 tháng Năm).
5.4 Tiên tổ Phan Đình Phùng tên tự là Tôn Cát, hiệu là Châu Phong, thuỵ là Trang Lượng Phan hầu (tên huý là Điều), là con trai thứ tư của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09), đỗ Đình nguyên Tiến sĩ. Người sinh ngày 24 tháng Tư năm Đinh Mùi (1847), mất ngày 13 tháng Mười một năm ất Mùi (1895). Lúc nhỏ tính đần, thấy anh em phần nhiều là thông minh khôn ngoan, chú bèn gắng sức đọc sách, khoảng 4, 5 năm tay không rời sách. Khoa Bính Tí, chú cùng với người cháu họ là Phan Văn Du cùng đỗ Cử nhân. Khoa Đinh Sửu thi Hội, liền đỗ Tiến sĩ Đình nguyên, trải làm các chức quan như Tri phủ phủ An Khánh, Ngự sử, Khâm sai, đến Bắc Kỳ khám xét tình hình thiên tai gió bão. Sau vì việc phế lập của đám quyền thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, cả triều đình chẳng ai dám nói ra, Người một mình giữa triều đình can ngăn, không chịu khuất phục, nên bị giáng chức, ít lâu sau lại được triệu về Kinh. Tiếp đó có tang mẹ, chú trở về quê. Năm Đồng Khánh ất Dậu, vua Hàm Nghi chạy trốn đến Sơn phòng Hà Tĩnh, có ban chỉ vời, chú đến hành tại(1) bái yết, được nhà vua giao cho chức Đổng biện nghĩa quân Nghệ Tĩnh. Vì là mệnh lệnh của vua nên chú không dám từ chối, hăng hái khởi nghĩa. Với Pháp, Người là kẻ thù, phải vào ẩn trong núi để mưu đồ việc nước. Chẳng may bị bệnh ở trong núi, thuốc thang chữa chạy không khỏi, nên mất vào ngày 13 tháng Mười một. Khi Người đứng ra nhận mệnh lệnh của vua, biết là việc không thành công được, nên đã dặn vợ con và những người đi theo ra trình diện đầu thú để bảo toàn tính mạng (lần ấy con trai chú là Đình Cam, con gái là Thị Năm, Thị Sáu, vợ là bà Ngoạt Rừng và cháu trai là Đình Phương, Đình Nghinh đều ở trong núi trở về). Trước sau Nười giữ vững khí tiết của người làm tôi, tên tuổi truyền khắp hai kỳ Nam, Bắc. Người Pháp cũng phải khen ngợi Người là người bậc nhất.
* Vợ cả của Người là con gái của quan Phủ Thận người thôn Thọ Tường (cố Đình thọ 73 tuổi, giỗ ngày 20 tháng Bảy năm Canh Thân), sinh được 4 trai, nay chỉ còn 1 con trai là Phan Đình Hiệu tục gọi là Đễ Tạo (đi Nhật Bản du học, nay đã tử tiết tại Thượng Hải, được tặng hàm Thị độc, giỗ ngày 15 tháng Giêng).
* Vợ lẽ của Người là con gái của quan coi kho (người tỉnh Hà, chưa rõ lai lịch, chỉ thấy có nhà ở Kinh thành) làm vợ hai, gọi là bà Ngoạt Rừng, sinh được con trai là Phan Đình Cam (bị giam ở tỉnh Quảng Bình, do liên can đến vụ án của anh là Phan Đình Hiệu mà bị đày đi xa. Ngày 28 tháng Ba năm Bính Thìn bị bệnh chết ở tỉnh Hà Tĩnh); 2 gái là Phan Thị Năm, Phan Thị Sáu (Thị Năm gả cho con của án sát Hoàng Xuân Sinh ở xã An Hồ, Thị Sáu gả cho con của ông Tú ấm ở thôn Tùng ảnh xã Việt An).
5.5 Tiên tổ Phan Đình Vận, tên tự là Quảng Thúc, hiệu là Thái Xuyên Phan phủ quân (tên huý là Lê), là con trai thứ 5 của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09), đỗ Phó bảng, nguyên làm Tri phủ phủ Xuân Trường, sinh năm Kỷ Dậu, mất ngày 20 tháng Năm năm Kỷ Mão. Vốn là người hiếu thảo với cha mẹ nhường nhịn với anh em, khiêm tốn hoà nhã, học hành khá thông minh. 18 tuổi đi thi khoa Đinh Mão đỗ tất cả các trường; 19 tuổi đi thi ân khoa khoa thi Hội năm Mậu Thìn liền dành được ngôi Phó bảng. Trải làm các chức Nội các thừa chỉ, Tri phủ Xuân Trường; tiếp đó vì đương đầu với giặc Pháp, không giữ được thành trì nên bị giáng về làm hiệu phái ở Nội các. ít lâu sau chú mắc bệnh xin về.
* Vợ của Người là con gái thứ 2 của quan Bố chánh Lê Khanh người thôn Trung Lễ, thọ 71 tuổi, mất ngày 19 tháng Bảy năm Tân Dậu, sinh được 1 trai 2 gái. Con trai là Phan Đình Đường tục gọi là cậu Cháu Phủ (hiện vào Nam kỳ dạy học); con gái là Phan Thị Phú (gả cho con của Hoàng Quận công người thôn ta là Hoàng Hiệp biện, hiện lãnh chức Tổng đốc Hà Đông, sinh được 1 gái là Hoàng Thị Thư gả cho con trai thứ 2 của Tiến sĩ Phan Huy, tục gọi là cậu ấm Quýnh); con gái là Phan Thị Định (gả cho con trai thứ của Thị giảng Lê Văn Chí người thôn Tùng ảnh xã Việt An là Tú tài Lê Văn Thành, mất sớm, không có con).
5.6 Tiên tổ Phan Đình Lan (Đệ), (Nghênh) là con trai thứ 7 của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09) (con bà thiếp), do bà tục gọi là cố Duệ (giỗ ngày mồng 5 tháng Giêng) sinh ra, mất ngày mồng 8 tháng Tư.
* Vợ của Người là con gái của ông Chánh Dĩ họ Kiều người thôn ta, tục gọi là mụ Duệ Bảy, sau cũng cải giá lấy người khác, sinh được 1 trai gọi là cậu Hạnh, lấy con gái của ông Cựu Hất họ Kiều người thôn nhà, sinh được 1 trai tên là Thụ.
5.7 Tiên tổ Phan Đình Thành là con trai thứ 8 của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (con bà thiếp), do bà cố Duệ Liên sinh ra, mất ngày mồng 8 tháng Mười hai,\
* Vợ là con gái của ông Đễ Chế, tục gọi là bà ấm Tám, sinh được 1 trai tục gọi là anh Năm Bến, 1 gái gả cho người thôn An Hội, tục gọi là chị Ngoạt Hà.
5.8 Tiên tổ Phan Khắc Viễn là con trai thứ 9 của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09) (con bà thiếp gọi là cô Nhị (giỗ ngày mồng 10 tháng Hai) sinh ra), tục gọi là cậu ấm Thực, mất ngày 16 tháng Mười hai.
* Vợ là con gái ông Bá hộ Thư, tục gọi là ấm Chín, sinh được 1 trai gọi là đồ ấm, lấy con gái của ông Hương Tư ở Việt An. Sau đồ ấm đến Bắc Kỳ, bị bệnh mà chết, vợ cải giá lấy người khác.
Phả chép trên đây, từ bà là con gái thứ nhất nhà họ Phạm hiệu Trang Thục nhụ nhân trở xuống, đến chú họ là ấm tử tự Khắc Viễn Phan phủ quân, là do cháu nối dõi Phan Văn Liễu chiếu theo thế thứ và năm sinh ngày mất của tổ tiên, cùng những điều nghe được thường ngày về tính cách, đức hạnh, sự việc của ông cha, những việc làm mà mắt thấy tai nghe được, nhất nhất đều kính cẩn ghi chép lại, để cho người đời sau xem trong phả mà thấy được sự nghiệp của ông cha, chứ không dám phô bày để khoe khoang với người.
Ngày mồng 1 tháng Bảy năm Duy Tân 5 (1911).
Cháu là Phan Văn Liễu hiệu Huân Mộc lạy ghi.
Tháng hai, tháng ba giữa xuân năm Bảo Đại,
Trưởng nam Phan Văn Bang (tức Phan Văn Quý, đời 12)
lại vâng lạy ghi chép.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét