Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

GIA PHẢ HỌ PHAN ĐÌNH (Phần 1)

MÊy lêi nh¾n nhñ
Việt Nam ta có hàng trăm dòng họ - Theo truyền thuyết thì họ Phan có từ đời Vua Hùng thứ 18 mà  dòng họ Phan Đông Thái (Đức Thọ -  Hà Tĩnh) chỉ là một chi, một nhánh của họ Phan mà thôi. Họ Phan Đông Thái của chúng ta tồn tại được khoảng 600 năm (Thời vua Trần Giản Đinh 1407 - 1409) cho đến nay đã trải qua 17, 18 đời.
Không biết tự bao giờ và do ai đặt ra mà các dòng họ cứ khoảng 5,6 đời thì lại tự tách ra thành chi, thành nhánh. Chi Hai họ Phan Đông Thái cũng vậy. Kể từ khi Tổ phụ Phan Văn Nhã (đời 09) tách chi đến nay cũng đã được hơn trăm năm và tồn tại được 7,8 đời. Chi HAI ta cũng trải qua nhiều thăng trầm; Có lúc tưởng chừng như tuyệt tự, nhưng nhờ ân trạch của tổ tiên và hồng phúc mà Trời - Đất ban cho mà chi HAI ta ngày nay ngày càng đông đúc. 
Từ khi Tổ phụ Phan Văn Nhã lập chi đến nay thì con, cháu,chắt, chút, chít… của Người kể cả nội, ngoại, dâu rể cũng có gần 300 người. và  chắc chắn còn phát triển nữa với 02 tiểu chi – Đó là chi trưởng của Ông Phan Văn Hoà (có khoảng trên 200 người) và chi thứ của Cụ Phan Xuân Hiếu có khoảng 30 người.
Tôi là người biên tập lại Phan Gia Tông Phả Loại Biên Đông Thái - Tùng Ảnh - Đức Thọ - Hà Tĩnh và chấp bút gia phả họ Phan thôn Đào Xá - Trung Chính - Lương Tài - Bắc Ninh có đôi lời bộc bạch như sau:
1 - Từ sau khi Bố Mẹ tôi qua đời, tôi bắt đầu suy nghĩ về dòng tộc và quê hương bản quán một cách sâu sắc. Nó cứ lớn dần lên qua năm tháng và đặc biệt khi được tiếp cận “Thế phả họ Phan thôn Đông Thái xã Yên Đồng (nay là Tùng Ảnh - Đức Thọ)” của Tổ phụ Phan Văn Nhã (bản dịch do ông Lê Văn Duyệt tự là Tân Việt, một cao lão họ Lê cùng quê Đông Thái giỏi Hán Nôm dịch vào tháng 05 năm 1997) tôi thấy mình cần có trách nhiệm tiếp bước tiền nhân viết tiếp về dòng họ của mình.
2 - Những điều tôi biên tập lại là dựa trên những tư liệu đã được lưu truyền, qua tai nghe mắt thấy và những câu truyện do nhiều người kể lại; Chỉ có điều tôi “Việt hóa” theo văn phong, cách suy nghĩ, thói quen… ngày nay nhưng xin đảm bảo giữ nguyên những nội dung của cuốn phả do Tổ phụ viết để lại.
Tôi trộm nghĩ kể từ khi Ông Nội chúng tôi là Tiên Tổ Phan Văn Trì buộc phải rời bỏ quê hương Đông Thái ra Bắc Ninh sinh sống (khoảng 1908 – 1910) cũng ngót nghét được 01 thế kỷ và có 4,5 thế hệ thì việc hình thành một dòng họ Phan tại đây là điều khó có thể đảo ngược. Tuy nhiên để hậu thế sau này hiểu về cuội nguồn dòng họ mình một cách logic và không bị đứt mạch nên tôi biên tập quyển phả này với một số phần sau.
PHẦN I
Toàn văn Phan gia Tông Phả loại biên do các Tiền nhân ghi chép và lưu truyền lại (đã được Việt hoá)
1. Bài tựa do Phó bảng Phan Văn Nhã viết năm 1829 (Đời 9)
2. Bài bạt do Tú tài Phan Hải Châu viết năm 1907 (Đời 10)
3. Phần ghi chép của Phó bảng Phan Văn Nhã từ đời 1 đến đời 8 (1829 - 1864)
4. Phần ghi chép của Tú tài  Phan Văn Liu từ đời 9 đến đời 10 (1911). Tiền nhân Phan Văn Quý (Cả Bang) viết đời 11 và 12 (1925 - 1930).
5. Đời 11 và những ghi chép về câu đối ở nhà thờ; bài khắc trên bia, trên lư hương, trên chuông … và những người đỗ đạt của dòng họ (trích trong “ Đông Thái Phan tộc lược biên” do Tú tài Phan Hải Châu viết năm 1907.
 PHẦN II
Về Chi Hai họ Phan Đông Thái và họ Phan thôn Đào Xá - xã Trung Chính - huyện Lương Tài - tỉnh Bắc Ninh.
PHẦN III
Sơ đồ Tông phả họ Phan Đình và 08 chi
    
NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI XEM CUỐN PHẢ

- Theo gia phả còn lưu lại thì họ Phan ta được gọi là họ Phan Đông Thái. Ngày nay chúng ta gọi là họ Phan Đình Đông Thái.
- Ngày 16 tháng giêng hàng năm (âm lịch) là ngày Giỗ Tổ của dòng họ.
- Dòng họ Đại Tôn có 08 chi. Từ đời 01đến đời 08 chưa tách chi. Từ đời 09 trở đi thì bắt đầu tách chi (xem cây gia phả của 08 chi)
- Khi biên tập cuốn phả này tôi dựa vào:
* Thế phả họ Phan Đông Thái xã Yên Đồng do tiên tổ Phan Văn Nhã và các bậc tiền nhân để lại (bản chữ hán nôm hiện  do cụ Phan Tư Giản ở TP HCM lưu giữ) được cụ Lê Văn Duyệt tự là Tân Việt dịch vào thàng 05 năm 1997.
* Phan Gia Tông Phả Loại Biên (bản Hán Nôm có ký hiệu VN1340 đang lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm) tôi đã nhờ Viện nghiên cứu Hán Nôm sao chụp từ bản gốc cuốn phả trên giấy Dó và kính biếu nhà thờ Đại Tôn một bản (tháng 02/2009) kính biếu nhà thờ Chi II 01 bản (hiện do trưởng chi Phan Văn Hòa giữ), 01 bản do tôi giữ. Tài liệu này được bà Vũ Thị Hằng cán bộ Viện Hán Nôm (đã nghỉ hưu) dịch, được PGS Trần Nghĩa nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm hiệu đính.
* Gia phả họ Phan Đình làng Đông Thái – Đức Phong – Đức Thọ - Hà Tĩnh do cụ Phan Văn Duật và cụ Phan Kim Huy sưu tầm và ghi chép năm 1987.
* Tham khảo một số tài liệu như: Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Họ Phan Trong Lòng Dân Tộc Việt Nam của GS Phan Tương, gia phả một số dòng họ, lời kể của bà con trong ngoài Họ … 

CÁC NGÀY GIỖ, NGÀY LỄ

* Ngày 15/02 âm lịch: ngày mất của phó bảng Phan Văn Nhã
* Ngày 17/04 âm lịch: ngày mất của vợ cả phó bảng Phan Văn Nhã
* Ngày 03/01 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Phan Văn Huyễn (con của phó bảng Phan Văn Nhã).
* Ngày 14/08 âm lịch: ngày mất của vợ tiên tổ Phan Văn Huyễn
* Ngày 07/01 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Phan Văn Cơ (em cùng cha khác mẹ của tiên tổ Phan Văn Huyễn).
* Ngày 20/09 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Phan Văn Quýnh (con của tiên tổ Phan Văn Huyễn).
* Ngày 21/12 âm lịch: ngày mất của cụ bà Hoàng Thị Lan vợ tiên tổ Phan Văn Quýnh.
* Ngày 21/10 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Phan Khắc Cần (con tiên  tổ Phan Văn Cơ).
* Ngày 08/02 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Bùi Thị Lan Vợ của tiên tổ Phan Khắc Cần.
* Ngày 21/10 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Phan Khắc Cần (con tiên  tổ Phan Như Cơ).
* Ngày 10/04 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Phan Văn Trì (con tiên  tổ Phan Văn Quýnh).
* Ngày 25/09 âm lịch: ngày mất của tiên tổ Dương Thị Hai vợ của tiên tổ Phan Văn Trì.
Mùa đông 2009 viết tại nhà riêng
162 phố Kẻ Vẽ - Đông Ngạc - Từ Liêm - Hà Nội
Hậu duệ đời 14 (Đại tôn) đời 6 chi Hai
Kính viết
Phan Đức Thái
  
PHAN GIA TÔNG PHẢ LOẠI BIÊN
Bài tựa cuốn gia phả của dòng họ Phan
(Do phó bảng Phan Văn Nhã viết năm 1829)
Bản dịch: Lê Văn Duyệt (tự Tân Việt) dịch tháng 05/1997

Dòng họ có gia phả như nước có quốc sử, mục đích ghi lại những điều tốt đẹp của các đời trước để làm gương cho các đời sau mãi mãi noi theo. Dòng họ ta từ khi được ban cho tên họ là Phan trở đi, trải qua các thời đại, khó mà tính cho rành mạch được là có bao nhiêu đời, cũng không thể khảo cứu tách bạch được là bao nhiêu chi, nhánh, nên tạm ghi chép bắt đầu từ các đời gần đây, khi dòng họ từ thôn Đỡ (Dạ) (tức thôn Nhân Thi, huyện Hương Sơn) dời đến lập ấp ở thôn Đông Thái xã Yên đồng bên sông La thuộc huyện ta.
Hiện nay, họ Phan ở trong tổng ta là một dòng họ rất lớn, mà lại có nhiều người rõ ràng là thanh cao đẹp đẽ, thông minh mẫn đạt, đại để như nhau. Có thể xưa kia họ cùng thuộc một chi, nhánh, nhưng trải nhiều đời, con cháu lưu lạc, dần dần xa cách, dẫn đến tình trạng không còn biết được là có mối liên hệ thân thuộc gì với nhau không? Dựa theo những điều tai nghe mắt thấy mà ghi lại, thì chi ta cho đến nay được tất cả 8, 9 đời. Sự trung hậu của dòng họ, người đời cũng đã lưu truyền; tài thi thư của dòng họ, người đời cũng đã trọng thị, công đức của tổ tông thật rạng rỡ biết bao!
Tuy sự hưng thịnh đắp đổi, không chỉ xuất hiện trong một lần, các sự trạng cũng khó ghi chép được hết, nhưng phúc khánh ấy do đâu mà tới cũng dần dần biết được.  Muốn tìm về cội nguồn, thì phải dựa vào cái gì để khảo xét? Các vị tiền bối trước kia như Thái Hiên tiên sinh Trọng Giai Phan Lệnh công, Giám sinh Duy Xưởng Phan Quý công từng muốn đem những điều dò hỏi được, những dấu tích xưa còn lại ghi chép thành một tập để cho con cháu các đời sau được biết. Nhưng sau cơn binh lửa, những ghi chép này đều bị thất lạc, nên cũng không biết dựa vào đâu để tham khảo, giám định lại. Đến đời cha ông ta thì chỉ còn lại một bản sao, trong đó ghi chép  các tên huý, tên hiệu, ngày giỗ của tổ tiên và đại lược về thế thứ các đời. Bản sao này tuy có chia thành nhiều điều khoản bao gồm nhiều sự việc, nhưng rốt cục vẫn còn quá sơ lược. Sau này việc biên soạn một tập gia phả đầy đủ biết uỷ thác cho ai đây?
Tôi nghĩ rằng gia tộc nhất định phải có phả, mà phả thì sao lại không ghi chép cho đầy đủ các sự việc? Tôi sớm theo đòi cử nghiệp, chưa thể nối chí cha ông để hoàn thành công việc biên soạn một cuốn gia phả như mọi người đang trông đợi. Nay việc thi cử của khoa thi Hội năm Kỷ Sửu (1829) đã xong, đội ơn trên cho về thăm nhà. Tôi đã tìm được một số giấy tờ cũ, trong lòng dấy lên bao nỗi cảm khái. Bèn thu nhặt thêm những tư liệu của các đời gần đây, thấy cũng được tương đối. Nhân những gì đã có, cộng với những điều mình hiểu biết, tôi bèn đem các tư liệu về gia phả phân chia thành thế thứ trên dưới. Trong từng thế hệ lại trình bày sơ lược hành trạng của các vị thuộc thế hệ đó từ đầu cho đến cuối. Vậy là tôi đã có một cuốn Tông phả loại biên. Tuy không thêm bớt được gì nhiều, nhưng thế thứ của tổ tông được trình bày rành rẽ; những nỗi gian nan vất vả của cha ông, nếu như bản thân tôi biết được cũng xin ghi chép đầy đủ vào đây, ngõ hầu ngàn vạn năm sau, con cháu có lý do để yêu thương và biết ơn tổ tiên của mình. Nên viết bài Tựa này
PHÀM LỆ
Tập Tông phả loại biên này được viết với các quy định như sau:  Về thứ tự các đời thì chép từ cuối đến đầu. Về mỗi thế hệ thì chép từ đầu đến cuối. Đại để là khi nói về thân sơ, thì chép từ gần đến xa, tức là từ cuối đến đầu; còn khi nói về trước sau, thì chép từ xa xưa cho tới tận bây giờ tức là từ đầu đến cuối. Lẽ dĩ nhiên là trong quá trình viết, có sự tham chiếu, liên hệ giữa hai cách trình bày đó. Người xem nên biết: “đời xa” là nói về thế hệ thứ nhất; “đời gần” là nói về các thế hệ thứ hai, thứ ba... Các thế hệ còn lại thì cứ thế mà suy, ngõ hầu khỏi bị nhầm lẫn vậy.
“Phan” là tên họ, do Tất công thời nhà Chu được ban thực ấp ở đất Phan, về sau nhân đó, lấy nơi ở của tổ tiên làm tên họ. Nay cũng cứ theo như thế.
Viết vào ngày rằm tháng tám năm Kỷ Sửu, Minh Mệnh 10 (1829).

Cháu thuộc chi thứ, là Phó bảng khoa Kỷ Sửu, Trung Phong Thận Trai Phan Văn Nhã hiệu Chính Phủ kính viết bài Phàm lệ.

BÀI BẠT
Do tú tài Phan Hải Châu (đời 10) viết năm 1907
Bản dịch: Lê Văn Duyệt (tự Tân Việt) dịch tháng 05/1997

 Nghìn cành vạn lá của cây bắt đầu từ gốc, nghìn dòng vạn nhánh của sông bắt đầu từ nguồn. Tổ tiên của con người cũng như gốc của cây, nguồn của sông vậy. Về sau, gốc ăn sâu, nguồn lan xa thì chia thành cành, thành nhánh, không biết cơ man nào mà kể. Cành đã chia ra, thì một cành lại có tổ của một cành; nhánh đã tách biệt, thì một nhánh lại có phả của một nhánh. Tuy giống nhưng lại khác nhau đấy. Cái thế ắt là như vậy, nhưng không thể không tìm ngược trở lên cái gốc, cái nguồn của nó.
Truyền rằng họ Phan ta bắt đầu từ cụ họ Phan làm Thiêm sự Đô chỉ huy sứ (?) hầu công thần triều Lê, tên huý là (?). Cụ ban đầu là người Hưng Yên, cuối đời Trần quân Minh sang xâm chiếm nước Nam, Trần Giản Định, Lê Thái Tổ đều ẩn tích ở thôn Chi La. Cụ cùng Bùi Ban, Bùi Bị ... theo Lê Thái Tổ cùng Thái hậu trú chân tại các vùng rừng ở động Kỵ Đã, thôn Hoà An, xã Phụng Công. Tại đây nghĩa quân xây đồn binh, khai khẩn đất đai mà trở thành đô, thành ấp. Thuỷ tổ của ta là cụ Tiền Nhân, tên huý là Dung phủ quân, là con cháu của cụ Thiêm sự vậy. Bấy giờ chỉ cày ruộng đào giếng, cùng nhau làm việc, cùng nhau nghỉ ngơi. Thôn vùng núi Lâm ổ bấy giờ còn chưa mất cái vẻ chất phác, hoang dã. Đó là nơi phát tích rất nhỏ bé vậy. Cụ sinh được 3 người con trai.
Cụ Hậu Nhân tên huý là Tiết phủ quân, là con trưởng của cụ thuỷ tổ. Ban đầu sống ở thôn Đã, nhưng cảm thấy đây là nơi hoang dã. Cụ từng nói : “Đá to nhưng ngáng trở, đất dầy nhưng toàn sỏi cát, cỏ cây tươi tốt nhưng không cao, ta làm sao chịu nổi nơi hẻo lánh này”. Cụ từng đi khắp nơi ngắm chỗ để ở, nhưng chưa định được nơi nào. Một hôm tới La Sơn (nay là tổng Việt An), thấy phía tây xa trông có Tùng Lĩnh, phía đông nhìn về Mai Hồ, phía nam Châu Mặc liền thành một dải, phía bắc vượt qua sông La, vòng về bến Ngưu. Cụ mừng nói: “Núi sông đẹp thay, thật là vùng đất tốt! Khí anh linh tất sinh ra người tuấn kiệt, nếu chọn đây làm nơi ở của ta thì đương nhiên là có lợi cho con cháu”. Cụ xem bói thì được chữ đại hữu của quẻ Ly. Thầy bói nói rằng:

Cát !  Ly giả, ly kỳ sở dã.
Nhi chiếu chi:
Dĩ thiên quang hoàng hoàng nhiên
Vi châu vi mặc
Hợp chi thành sắc
Phát chi vi văn chương
Thương thương nhiên
Vi tùng vi mai
Tài chi giả bồi
Kết chi vi thư hương
Phượng hề ! phượng hề !
Lãm đức huy nhi cao tường.
Bát thế chi hậu
Mạc chi dữ Kinh
Dữ thử giang sơn vi cửu trường”.
Dịch nghĩa:
Tốt ! Ly là rời khỏi xứ sở của mình
Xét thấy :
Lấy ánh sáng rực rỡ của trời để làm son làm mực
Tụ họp lại thì thành màu sắc
Phát tán ra thì là văn chương
Xanh xanh là tùng là mai
Người trồng nó mà biết vun đắp
Kết quả sẽ là gia đình Nho học
Phượng ư! phượng ư!
Thấy đức sáng mà liệng bay
Sau tám đời
Chẳng ai không cùng với kinh thành
Với non sông này dài lâu.

Cụ bèn dời đến ở đó mà thành họ Phan Đông Thái, một bộ phận ở lại thôn Đã là họ Phan Nhân Thi, tức là chi nhánh của họ Phan ngày nay. Một bộ phận di cư đến Cẩn Kỵ, thành chi họ Phan Cẩn Kỵ, tức  cũng là một chi nhánh nữa của họ Phan ngày nay, nhưng giờ đây, không thấy ai phát công hầu, vậy con cháu nên tìm lại nơi xuất phát. Nay dòng họ ta đáng lẽ phải xuất hiện nhiều trung thần nghĩa sĩ, nhưng khảo cứu hai dòng họ ở Nhân Thi và Cẩn Kỵ thì thấy con cháu suy vị, gia phả không truyền lại, không đủ để làm chứng cứ. Xem xét trong sử nhà Lê, thấy cũng không ghi chép rõ ràng, nên chưa dám gọi đây là một cuốn phả được minh xác.
Chỉ có điều là, cụ tổ thế hệ thứ 2 là Hậu Nhân với tư cách là con trưởng nối dõi của cụ Tiền Nhân, từ thôn Đã, dùng bói toán để xây dựng nhà ở khoảng giữa núi Tùng sông Mai ta, phá gai góc mà thành ruộng thành vườn, từ đất bằng mà xây thành nhà thành cửa, nhổ cây làm đường, khúc khuỷu gập ghềnh, trèo non xuống đồng bằng, lo toan vất vả mệt nhọc, lấy sự trung hậu để mở nền, lấy nông trang để dựng nghiệp, việc mở mang ấy thật gian khó.
Cụ tổ thế hệ thứ 3 là cụ Ni tiếp nối cha ông, ruộng vườn được chăm sóc có nơi đã thành cơ nghiệp, nhưng nếp nhà còn chưa được tốt đẹp.
Cụ tổ thế hệ thứ 4 là cụ Mao tiếp nối cha ông, anh em có 4 người, tụ tập sinh sống dần dần đông đúc, nhưng gia thanh chưa được nổi bật.
Cụ tổ thế hệ thứ 5 là cụ Ý tên là Đình Liên, ban đầu ham thích sách vở, theo đòi văn học. Nghiệp nhà đã được gây dựng mà văn mạch của nhà ta cũng được mở mang hơn trước. Có ông anh họ là Giám sinh trường Quốc tử giám tên là Trọng Giai.
Cụ tổ thế hệ thứ 6 là kỳ lão Duy Năng, chính là kỵ của ta. Với danh nghĩa là con út mà gánh vác được việc nhà, quyết chí làm vẻ vang sự nghiệp của ông cha, để lại phúc ấm cho đời sau. Cần kiệm để cho sinh kế gia đình được dư đủ, dùng sách vở để làm cho gia phong được cải thiện, ưu ái đãi ngộ các bậc thân sĩ, trọng đạo sùng Nho. Con trai có người là Giám sinh, con rể có người khá hiển đạt, làm thành ngày hội lớn vườn đào. Gia đình từ đó phồn thịnh, phăng phăng tiến tới, không trở lại nơi ở cũ là thôn Đã nữa. Lại có 2 người em là cụ Hiệu, cụ Đức, bắt đầu chia thành 3 chi, đã có quyển phả của dòng họ đại tôn.
Cụ tổ thế hệ thứ 7 là cụ Duy Ninh, thi Hương đỗ 3 trường, chính là cụ của ta. Cụ nối chí tiền nhân mà vun xới nghiệp nhà, dùng đạo lý mà làm ra của cải, dùng đạo lý mà xử dụng của cải. Tôn sùng ưu đãi đạo Nho, có phong cách rộng rãi như cha ngày trước. Nếp nhà hưng thịnh mà công lao đèn sách của cụ cũng để lại ảnh hưởng tốt cho đời sau. Thế nên ông anh cả của cụ là Duy Xưởng trở thành Giám sinh trường Quốc tử giám.
Cụ tổ đời thứ 8 là cụ Duy Tiến được tặng tước Công, lại nối tiếp mà làm cho sự nghiệp của ông cha thêm rộng lớn sáng sủa. Xây dựng đền miếu để phụng thờ tổ tiên, lấy Thi Thư để dạy dỗ con cái, một lòng sùng đạo, có thể tiếp nối ý chí của tổ tiên. Cụ tự tay vun trồng 3 cây hòe, gia thế từ đó hưng thịnh, một mạch phát triển. Cụ thôi không nghĩ tới chuyện trở lại chốn ban đầu là Thái Trạch nữa. Gây dựng bồi đắp một dòng họ 8 đời cho đến nay, kể từ nguồn cội, đức sáng cũng đã dài xa..
Ông bác đã mất của ta là Hồng lô tự Thiếu khanh Thận Trai (Phan Văn Nhã), từng tập hợp, phân loại và ghi chép lại, soạn thành cuốn phả của dòng họ Phan ta.
Đời thứ 9 thì truyền đến cụ Tặng công Phan Duy Tiến. Cụ sinh được 5 người con trai : trưởng là ông Đầu khoá Doãn Địch, thứ là ông Thiếu khanh Văn Nhã, thứ nữa là ông Tri phủ Bình Giang Văn Phong, thứ nữa là ông Thị giảng Đình Tuấn, thứ nữa là ông Tuần phủ Lạng Bằng Đình Tuyển, đó là 5 nhánh Tiểu tôn. Ngoài ra, còn hai nhánh nữa: 1 nhánh là hai cháu Duy Hựu, Duy Huy do cụ dòng nhà chú thuộc thế hệ thứ 7 là Đình Hiệu sinh ra; 1 nhánh là cháu Duy Lệnh do cụ dòng nhà chú thuộc thế hệ thứ 7 là Duy Đức sinh ra, hợp cả lại thành 8 nhánh. Chi, nhánh Đại tôn do đấy mà thành, và cha ta, ông Thị giảng Song An, là nhánh thứ 4 trong đó. Ông cho rằng các con thuộc chi cụ Tặng đã tách ra để làm ông tổ riêng, thì ta cũng phải tách ra làm phả riêng. Phả đã tách biệt, thì từ cụ Tặng trở về trước, không có gì để mà ghi chép lại. Dòng giống từ đâu mà ra, chi phái vì sao mà tách, cũng như tổ tông công đức như thế nào, cơ hồ nay không thể thấy được nữa. Than ôi! Đời trước làm lụng, mà sự hưng thịnh được truyền lại, con cháu đời sau được phấn phát. Có sự mở mang ấy là do tổ tiên, không ghi chép lại điều đó, thì sao làm sáng rõ cái đức với đời. Châu tôi vào năm trước, khi sửa sang lại cuốn phả họ Phan của cụ Song An, đã mạn phép trình bày sơ lược thứ tự các đời trong cuốn phả của dòng họ đại tôn, đặt tên là phần Thượng của cuốn chính phả họ Phan Đông Thái, để cho đời sau xem được đầy đủ. Vì sao gọi là “họ Phan Đông Thái”? Cốt để phân biệt với hai họ Phan ở Nhân Thi, Cẩn Kỵ vậy. Vì sao gọi là “cuốn phả trước đây” ? Cốt để làm nổi lên cuốn chính phả sau này vậy.
Trong cuốn phả đầu, chi trưởng đều viết là “hiển”, nay ai sinh ra từ nhánh chính thì viết là “hiển”, ngoài ra đều viết là “tòng” để cho rõ ràng về dòng, nhánh vậy. Ông hai Giám sinh tuy không phải xuất thân từ nhánh chính, nhưng về văn học của dòng họ ta, thực bắt đầu từ ông hai khởi xướng, đó là điều cần phải nêu cao và trình bày rõ. Nhưng theo thứ tự các đời thì thấy chỉ thêm vào ở phần sau của thế hệ thứ 5, thế hệ thứ 7, để biểu thị có sự tách biệt. Từ thế hệ thứ 9 trở xuống, chỉ riêng trình bày về dòng tiểu tôn, đó là thể hiện rõ ràng sự thân sơ vậy. Cành nhánh nào héo rụng, không còn lưu truyền, thì chỉ chép sơ qua và không nêu rõ chứng cứ, hoặc chỉ điểm qua vài nét mà thôi. ở cuốn phả đầu trong sách này, về thế hệ thì chép từ đầu cho đến cuối, từ xa cho tới gần; về các đời thì chép từ cuối cho đến đầu, từ gần cho đến xa. Nay thì chép thế hệ thứ nhất là đời thứ nhất, thế hệ thứ hai là đời thứ hai ... đó là muốn người xem dễ ghi nhận, khi từ đời nọ chuyển sang đời kia không bị phiền phức do sự viết đổi ấy. Cuốn phả trước ghi chép về các đời đã xa nên chỉ ghi sơ lược, còn cuốn chính phả thì ghi về các đời gần đây nên phải ghi tường tận, đó là sự khác nhau giữa thân và sơ vậy. Phả trước chép về các đời trước kia, chính phả chép về các đời sau này, đó là về thứ tự trước sau vậy.
Than ôi ! Núi Nhân l lần thay đổi mà đạo lý của đời được truyền xa. Sông La 2 lần đổi thay mà ơn huệ của đời được toả rộng. Trời vốn muốn cho dòng họ ta được phát triển rực rỡ, mà dòng họ đã hoà hợp cùng nhau sống ở đó. Đấy chỉ là về chỗ ở. Còn về việc ông họ Phan là Tiến sĩ, làm Đốc bộ Định An ở xã Việt An, ông họ Phan là Tiến sĩ, làm Quốc tử tế tửu ở xã An Hội, ông họ Phan là Tiến sĩ làm Đốc bộ Hải An ở cùng ấp, đều là những người chung một địa phương mà trở nên hiển vinh, cùng đem tài hoa ra tô điểm cho vùng đất Mai Hồ – Tùng Lĩnh đấy chăng! Trồng cây đức tất phải xem cái gốc của nó. Uống nước sông tất phải nhớ cái nguồn của nó. Xem công đức, lẽ nào không dựa vào đấy sao? Nay con em trong dòng họ ta có nhiều người đọc sách, đều là do ơn đức đời trước để lại. Vậy mà hỏi đến chuyện dòng họ từ đâu ra, vì sao phải tách thành chi nhánh, thì lại mơ hồ, mù mịt. Thế thì sao biết được công lao của tổ tiên ta, ơn đức của dòng họ ta? Lại còn mong có người có tấm lòng kính trọng bậc tôn trưởng, thương yêu mọi người được chăng? Ta sở dĩ sửa sang lại cuốn phả họ Phan của cụ Song An mà trước tiên là chép lại cuốn phả trước đây, cũng chỉ vì muốn con cháu ta xem cuốn phả của ta thì biết được tổ tiên ta gây dựng cơ nghiệp gian nan vất vả như thế nào, làm sao mà có thể để lại sự dư dả cho con cháu đời sau xa rộng như thế, tích luỹ công đức để cho ngày hôm nay được thụ hưởng như thế. Vì vậy, phải biết kính trọng bậc tôn trưởng. Bước vào nhà thờ họ, phải biết được đó là bác của ta, biết được đó là chú của ta, đó là anh của ta, đó là em của ta. Cùng chung một dòng máu trong người, thì đều là thân thích của nhau. Phải biết thương yêu, hoà thuận cùng nhau. Có thế mới không làm mai một ân trạch đã tích luỹ từ nhiều đời qua sách vở do cha ông để lại cho ta. Đó là điều ta mong mỏi vậy. Nếu muốn biết rõ ràng, đầy đủ sự tích của dòng họ, thì hãy đọc cuốn Tông phả loại biên do cụ Thiếu khanh soạn, nằm ở phần trước quyển phả này. Con trai ngài được phong tước Công, có cung tiến cho nhà thờ đại tôn câu liễn rằng:

Hữu khai tất tiên, minh đức dã viễn hĩ,
Khắc xương quyết hậu, kế tự kì hoàng chi.

Nghĩa là :

Có sự mở mang tất là do tổ tiên, đức sáng đã có từ xa xưa rồi,
Làm cho con cháu được phồn thịnh, tiếp nối làm cho nó thêm lớn đẹp.
Muốn chép lại để khắc ở miếu. Lại chắp tay vái và làm bài minh rằng : 

Nhân sơn ngật ngật
Duy ngã tổ sơn
Nhất mạch triệu bồi
Dĩ hữu ngã Phan
Diên chi vi châu mặc chi tinh

Kết chi vi tùng mai chi anh
Ư vạn tư niên
Minh đức duy hinh
Thượng đốc kỳ khánh
Dĩ bảo ngã hậu sinh.


Nghĩa là:
Núi Nhân cao chót vót
Chỉ có nó là ngọn núi của tổ tiên ta
Gây dựng bồi đắp một dòng huyết mạch
Để có họ Phan ta
Kéo dài nó ra, làm cho son mực thêm tươi
Gắn kết nó lại, làm cho tùng mai càng tốt
Trong muôn vàn năm ấy
Chỉ có đức sáng toả ngát hương bay
Còn làm cho cái phúc ấy thêm đầy đặn
Để bảo vệ những kẻ sinh sau của ta


Lại làm bài minh rằng: 



Thuỷ chi trường giả
Tất thâm kỳ nguyên
Vô hoặc ủng chi
Nhi lưu phái sàn viên
Mộc chi mậu giả
Tất thâm kỳ căn
Vô hoặc tường chi
Nhi hoa thực thịnh phồn
Ngã lâm La thuỷ
Hạo nhiên diêu di
Ngã tố thiện căn chi sở tự
Ngã đăng Tùng Sơn phong
Uất nhiên thanh thông
Ngã niệm phúc căn chi sở tòng
Ngã nguyện đạo chi bồi chi
Bảo ngã gia phong
Dữ thử giang sơn nhi vô cùng.
Nghĩa là:
Sông mà dài, nguồn của nó ắt sâu,
Không bị cái gì đó bồi lấp,
Mà nhánh dòng thông suốt.
Cây tốt tươi, gốc của nó ắt sâu,
Không bị cái gì xâm hại,
Mà hoa trái xum xuê.
Ta nhìn xuống dòng sông La,
Mênh mông bát ngát,
Ta nhớ tới nơi gốc thiện từ đó nảy sinh.
Ta trèo lên ngọn núi Tùng,
Xanh rờn tươi tốt,
Ta nghĩ về việc noi theo gốc phúc.
Ta nguyện dẫn dắt chúng, vun đắp chúng, 
Để gìn giữ gia phong của ta,
Cùng với giang sơn này còn mãi tới vô cùng.

Tuần cuối tháng đầu xuân năm Đinh Mùi niên hiệu Thành Thái 19(1907).
Cháu đời sau, chi thứ là Hội Phong Dưỡng Am Hoài Tân Tử Hải Châu Huân Mộc cúi đầu vái lạy, kính cẩn ghi chép ở biệt dã Vạn Sơn



3 nhận xét:

  1. truoc tien toi xin kinh trao cac bac cao nien va dai gia dinh dong ho phan toc song tren khap moi mien cua to quoc ,toi cung la mot thanh vien mang trong nguoi dong mau phan toc ,xem qua loi tua cua cuon gia pha ho phan dinh toi thay ho ta that may man vi da duoc cac bac tien boi qua nhieu doi da luu truyen va phat trien cuon gia pha de cho cac the he con chau mai sau hieu va biet duoc coi nguon va to tien cua minh boi chim phai co to nguoi phai co tong,cay co coi,nuoc co nguon.do la nhung viec nam trong tiem thuc cua moi con nguoi viet nam ta.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Rất cảm ơn bạn đã để lại lời nhận xét! Cộng đồng họ Phan ta nhiều nhánh, nhiều cành nhưng chung một gốc, chúng tôi muốn chắp một nhánh vào cây Phan tươi tốt, mỗi người trong họ đều có ý thức về cội nguồn thì cây Phan sẽ mãi xanh tươi!

      Xóa
  2. qua bài tựa của bạn tôi thấy sau 600 năm ,dòng họ phan Đông thái của bạn truyền được 17 -18 đời.nhưng sau 100 năm cưa chi 2 lại truền dược 7 -8 đời.so ra hơi khập khiểng.bạn coi lại xem sao.

    Trả lờiXóa