Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012

Làng khoa bảng Đông Thái (Xã Tùng Ảnh)


Phan đình

Trải qua bao cuộc bể dâu từ núi Tùng Lĩnh đi về h­uớng Đông đã hình thành một dãi đất tuyệt đẹp do phù sa của sông La bồi đắp nhu­ng vẫn ch­a đ­uợc bàn tay của con ng­uời khai phá. Đến đầu thế kỷ XIIV, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh tại núi rừng Lam Sơn – Thanh Hoá, sau khi quân giặc bị quýet sạch khỏi bờ cõi ông lên ngôi vua lấy nên hiệu  là Lê Thái Tổ. Ông đã có nhiều chính sách chấn h­ung đất nu­ớc, xây dựng nơi đây giàu mạnh về kinh tế, quốc phòng trở thành phên dậu vững chắc của tổ quốc.
Đi tiên phong có ông Phan Công vốn là một trong những vị công thần của nhà Lê. Cuối đời ông xin vua cho lui về xây dựng cơ nghiệp ở làng Phụng Công – huyện La Sơn (nay là xã Đức Đồng, Đức Lạc – huyện Đức Thọ). Vốn là ng­ời văn võ song toàn lại giỏi xem địa lý phong thuỷ nên qua những chuyến thăm thú núi sông, Phan Công thấy vùng đất ở phía Đông núi Tùng Lĩnh khá đặc địa, “nhất cận thuỷ, nhì cận sơn”, và thế núi, thế sông nh­u: “Rồng chầu, hổ phục”, tất yếu sẽ sinh ra cho đất nu­ớc nhiều ng­ời con tuấn kiệt.  Vì vậy truớc khi mất ông dặn con cháu nên chuyển về đây lập cơ lập nghiệp. Vâng lời các bậc tiên tổ, cháu m­ời đời của Phan Công là Phan Dung đã đem gia quyến, vợ con về xuôi cùng với các dòng họ Hoàng, họ Phan Trọng, họ Mai, họ kiều chung sức xây dựng làng Đông Thái phồn thịnh nh­u ngày hôm nay. Quả đúng nh­u dự đoán, con cháu của các dòng họ Phan Đình, Phan Trọng, Mai Văn và họ Kiều, họ Hoàng ngày càng đông đúc ham học và học giỏi. Trong số đó có hàng trăm ng­uời theo nghiệp văn chu­ơng hoặc nghiệp võ mà chiến công của họ đã lừng lẫy suốt trong Nam, ngoài Bắc.
Trong thế kỷ 19 thế giới đu­ợc mùa vĩ nhân, làng Đông Thái đ­uợc mùa cử nhân, tiến sỹ mở đầu cho kỷ nguyên này là ông Phan Văn Nhã đậu phó bảng khoa kỷ sửu (1829) làm quan đến chức Hồng Lô Tự Thiếu Khanh Quản Phu Quốc Sử Quán, Phan Văn Phong đậu 2 khoa cử nhân, Phan Văn Tuyển đậu phó bảng kho thi năm Giáp Thìn làm quan đến chức Tán Lý Quân Vụ. Phan Tam Tỉnh đậu tiến sỹ năm 1842 làm quan giám sát ngự sử, Phan Công Du đậu tiến sỹ năm 1875 làm quan Ti Phủ Quảng Trạch (Quảng Bình) sau đó đi sứ nhà Thanh. Phan Trọng M­uu đậu tiến sỹ Đồng Khoa 1879, với Phan Đình Nhuận là con em chú đ­uợc vua nhà Nguyễn phong chức Tam Biện Nội Các (sau này đã cùng với cụ Phan Đình Phùng phất cao cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp). Ng­uời con ­u tú nhất của làng Đông Thái là cụ Phan Đình Phùng sinh ngày 24 tháng 4 năm Đinh Mùi (tức ngày 6 tháng 6 năm 1877) đ­uợc phong chức Ngự Sử Đô Sát Viện, Phan Đình Phùng là ng­uời văn võ song toàn giỏi m­uu l­uợc sau này thấy vua quan nhà Nguyễn bán nu­ớc cho giặc ngoại xâm, cụ đã treo ấn từ quan trở về quê nhà làng Đông Thái rồi dựng cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp tại núi rừng Vũ Quang với tài m­uu l­uợc cụ Phan Đình Phùng và nghĩa quân đã đánh cho giặc Pháp nhiều trận “Thất điên bát đảo”.
Hoà bình lặp lại năm 1954 sau mấy chục năm dồn sức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc những ng­ời con trai, con gái của làng Đông Thái từ các mặt trận trở về lại treo gu­ơm, súng để vừa bắt tay vào xây dựng quê hu­ơng, vừa khôi phục lại “Đạo học”. Nhờ có sự giúp đỡ của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và bà con, cô bác mà nhiều ng­ời con của làng Đông Thái đã khắc phục khó khăn, thiếu thốn để học tập v­ơn lên nắm giữ đỉnh cao của tri thức. Làng Đông Thái đã có  19 ng­ời con là giáo s­u, phó giáo s­u tiến sỹ có nhiều công lao đóng góp trên các lĩnh vực: Thiên văn học, vật lý học, hoá học, y học, d­ợc học, quản lý kinh tế và văn học nghệ thuật.
Kế tục truyền thống đó làng Đông Thái không những gặt hái đu­ợc nhiều thành tích trong công cuộc xây dựng kinh tế xoá đói giảm nghèo mà còn là điểm sáng trong phong trào: xây dựng quỹ khuyến học nhằm tạo điều kiện cho con em nghèo v­uơn lên học tập tốt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét