Trải qua bao cuộc bể
dâu từ núi Tùng Lĩnh đi về huớng Đông đã hình thành một dãi đất tuyệt đẹp do
phù sa của sông La bồi đắp nhung vẫn cha đuợc bàn tay của con nguời khai
phá. Đến đầu thế kỷ XIIV, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh tại núi
rừng Lam Sơn – Thanh Hoá, sau khi quân giặc bị quýet sạch khỏi bờ cõi ông lên
ngôi vua lấy nên hiệu là Lê Thái Tổ. Ông đã có nhiều chính sách chấn hung
đất nuớc, xây dựng nơi đây giàu mạnh về kinh tế, quốc phòng trở thành phên dậu
vững chắc của tổ quốc.
Đi tiên phong có ông
Phan Công vốn là một trong những vị công thần của nhà Lê. Cuối đời ông xin vua
cho lui về xây dựng cơ nghiệp ở làng Phụng Công – huyện La Sơn (nay là xã Đức
Đồng, Đức Lạc – huyện Đức Thọ). Vốn là ngời văn võ song toàn lại giỏi xem địa
lý phong thuỷ nên qua những chuyến thăm thú núi sông, Phan Công thấy vùng đất ở
phía Đông núi Tùng Lĩnh khá đặc địa, “nhất cận thuỷ, nhì cận sơn”, và thế núi,
thế sông nhu: “Rồng chầu, hổ phục”, tất yếu sẽ sinh ra cho đất nuớc nhiều ngời
con tuấn kiệt. Vì vậy truớc khi mất ông dặn con cháu nên chuyển về đây
lập cơ lập nghiệp. Vâng lời các bậc tiên tổ, cháu mời đời của Phan Công là
Phan Dung đã đem gia quyến, vợ con về xuôi cùng với các dòng họ Hoàng, họ Phan
Trọng, họ Mai, họ kiều chung sức xây dựng làng Đông Thái phồn thịnh nhu ngày
hôm nay. Quả đúng nhu dự đoán, con cháu của các dòng họ Phan Đình, Phan Trọng,
Mai Văn và họ Kiều, họ Hoàng ngày càng đông đúc ham học và học giỏi. Trong số
đó có hàng trăm nguời theo nghiệp văn chuơng hoặc nghiệp võ mà chiến công của
họ đã lừng lẫy suốt trong Nam ,
ngoài Bắc.
Trong thế kỷ 19 thế
giới đuợc mùa vĩ nhân, làng Đông Thái đuợc mùa cử nhân, tiến sỹ mở đầu cho kỷ
nguyên này là ông Phan Văn Nhã đậu phó bảng khoa kỷ sửu (1829) làm quan đến
chức Hồng Lô Tự Thiếu Khanh Quản Phu Quốc Sử Quán, Phan Văn Phong đậu 2 khoa cử
nhân, Phan Văn Tuyển đậu phó bảng kho thi năm Giáp Thìn làm quan đến chức Tán
Lý Quân Vụ. Phan Tam Tỉnh đậu tiến sỹ năm 1842 làm quan giám sát ngự sử, Phan
Công Du đậu tiến sỹ năm 1875 làm quan Ti Phủ Quảng Trạch (Quảng Bình) sau đó đi
sứ nhà Thanh. Phan Trọng Muu đậu tiến sỹ Đồng Khoa 1879, với Phan Đình Nhuận
là con em chú đuợc vua nhà Nguyễn phong chức Tam Biện Nội Các (sau này đã cùng
với cụ Phan Đình Phùng phất cao cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp). Nguời con u
tú nhất của làng Đông Thái là cụ Phan Đình Phùng sinh ngày 24 tháng 4 năm Đinh
Mùi (tức ngày 6 tháng 6 năm 1877) đuợc phong chức Ngự Sử Đô Sát Viện, Phan
Đình Phùng là nguời văn võ song toàn giỏi muu luợc sau này thấy vua quan nhà
Nguyễn bán nuớc cho giặc ngoại xâm, cụ đã treo ấn từ quan trở về quê nhà làng
Đông Thái rồi dựng cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp tại núi rừng Vũ Quang với
tài muu luợc cụ Phan Đình Phùng và nghĩa quân đã đánh cho giặc Pháp nhiều
trận “Thất điên bát đảo”.
Hoà bình lặp lại năm
1954 sau mấy chục năm dồn sức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc những ngời con
trai, con gái của làng Đông Thái từ các mặt trận trở về lại treo guơm, súng để
vừa bắt tay vào xây dựng quê huơng, vừa khôi phục lại “Đạo học”. Nhờ có sự
giúp đỡ của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và bà con, cô bác mà nhiều ngời
con của làng Đông Thái đã khắc phục khó khăn, thiếu thốn để học tập vơn lên
nắm giữ đỉnh cao của tri thức. Làng Đông Thái đã có 19 ngời con là giáo
su, phó giáo su tiến sỹ có nhiều công lao đóng góp trên các lĩnh vực: Thiên
văn học, vật lý học, hoá học, y học, dợc học, quản lý kinh tế và văn học nghệ
thuật.
Kế tục truyền thống đó
làng Đông Thái không những gặt hái đuợc nhiều thành tích trong công cuộc xây
dựng kinh tế xoá đói giảm nghèo mà còn là điểm sáng trong phong trào: xây dựng
quỹ khuyến học nhằm tạo điều kiện cho con em nghèo vuơn lên học tập tốt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét