Ðây là dòng họ Phan là làng Ðông Thái xã Yên Ðống, huyện Ðức Thọ tỉnh Hà Tĩnh, mà hậu duệ là Ðình nguyên Tiến sĩ Phan Ðình Phùng, một vĩ nhân chống Pháp ai cũng biết.
Căn cứ theo thế phổ họ Phan ở Ðông Thái do Phó bảng Phan Văn Nhã thu thập biên soạn và đề tựa ngày rằm tháng 8 năm Kỷ Sửu, Minh Mệnh thứ 10 (1820), Tú tài PhânHỉ Châu viết thêm "Lược biên tiền phả" và bài bạt viết xong tháng giêng năm Ðinh Mùi Thành Thái 19 (1870) tại biệt dã của Vạn Sơn, và bản chép cuối cùng của Phan văn Liễu có chỉnh lý một số đời, vào ngày mùng 1-7 năm Tân Hợi Duy Tân thứ 5 (1911). các phổ liệu trên do người dịch là Tân Việt dịch xong ngày 30-5-1997 (tức 24-4 Ðinh Sửu) tại Hà Nội, bản viết tay.
Căn cứ bài tựa của ông PhanVăn Nhã có ghi:
Chữ Phan nguyên là do Tất Công đời nhà Chu được phong ấp ở đất Phan, về sau nhân đó mà đặt thành họ Phan.
Căn cứ bài bạt của ông Phân Hải Châu ghi:
Tương truyền họ Phan ta thuộc dòng giống của Phan Công huý... hầu (nguyên bản bỏ trống không ghi tên huý LDN) là Thiêm Sự đô chỉ huy sữ công thần triều Lê, nguyên xưa ở đất Hưng Yên.Cuối triều Trần, quân nhà Minh sang xâm lược nước ta, trước là Trần Giản Ðinh rồi đến Lê Thái Tổ đều ghi dấu tích ở huyện Chi La. Phan Hầu đã cùng với Bùi Ban,Bùi Bị... theo Lê Thái Tổ và bà Thái hậu ngự giá về Ðộng Kỵ Dã, Hoà Yên, Phụng Công(a) và các vùng lâm phần khác dồn binh khai khẩn đất hang dần dần thành làng xã(b)
Ðộng Kỹ Dã tức Dã thôn sau là làng Nhân Thi Cẩn Kỵ.Con cháu về sau có ông Phan Dung ở Nhân Thi đặt hiệu là Hậu Nhân công từ Nhân Thi về vùng Tùng Lĩnh, mai Hồ, khai khẩn đất hoang thành đời tổ thứ II mở ra dòng họ Phan ở Ðông Thái thì càng ngày càng đông đúc phát triển.
Ðời thứ III: Ny Công tiếp tục khai thác mở rộng ruộng vườn.
Ðời IV: mao Công có 4 anh em, nhân tố trở nên đông đúc.
Ðời V: ý công Ðình Liên phát huy mở mang văn học, có Tượng Giai quý công làm giám sinh Quốc Tử Giám.
Ðời VI: Duy Năng tiếp tục trọng đạo sùng nho, cùng hai em là HiệuCông vàÐức Công lập thành 3 chi có gia phả đại tôn.
Ðời VII: Duy Ninh thi đậu tam trường, con cháu có trưởng huynh là Giám sinh Duy Xướng.
Ðời VIII: Có Thị độc Tặng Công Duy Tiến xây dựng nhà thờ, Hồng Lô Tự Thiếu Khanhthận trai công Phan VănNhã, Phó bảng thu thập tài liệu biên soạn thành tộc phả (1829).
Ðời IX: con Tặng Công có 5 trai chia làm 5 chi phái gồm:
1. Chi Phái càn: Doãn Ðịch, 2. Chi phái Ðoài: Thiều Khánh Công văn Nhã, 3, Chi phái Ly: Bình Giang phong công Ðinh Tuần 5. Chi phái Tốn: Lãng Bằng vũ công Ðình Tuyển. Ðồng thời nhập thêm 3 chi phái từ đờithứ VII là: 6. Chi phái Khám: Duy Hữu Công, 7. Chi phái Càn: Duy HuyCông. Hai phái này do Ðình Hiệu sinh ra 8. Chi phái Khôn: Duy lệnh Công do Duy Ðức (VII) sinh ra.
Tất cả họ Ðại Tôn gồm 8 phái do Càn phái Doãn Ðịch Công làm trưởng.
Các chi phái đều phát đạt, con cháu nhiều người đậu đạt làm quan.
Chi Càn Doãn Dịch có Văn Liễu tộc trưởng đỗ hai khoa Tú tài (1867-1873) làm tri huyện Lễ Thủy rồi bị giáng.
Ðoài phái phó bảng Văn Nhã có Văn Huyễn (đời X) đỗ 6 khoa tú tài. Ông Văn Nhã có làm quan ở Hà Tiên, nên có ông Văn Thành cư trú ở Hà Tiên.
Ly Phái: Văn Phong cử nhân khoa Canh Tý Minh Mạng (1840), cháu là Phan Ðại (XI) làm Tri phủ Vĩnh Tường.
Chấn phái có Văn Dự (X), đỗ cử nhân khoa Mậu Tý (1858) làm Tuần Vũ Trị Bình. Cháu là Văn Du (XI), cử nhân khoa BínhTý (1876), Văn Châu (hay Hải Châu) tú tài khoa Bính Ngọ Thành Thái 1906. Con Hải Châu là Văn Hoàn cũng đậu tú tài.
Tốn phái Phan Ðình Tuyển (phó bảng khoa Giáp Thìn 1844) có 8 con (Ðời X) thì: Phan Ðình Thông đỗ tú tài Canh Ngọ 1870, Phan Ðình Thuật cử nhân Mậu Thìn 1868, Phan Ðình Phùng Ðình nguyên Tiến sĩ khoa Ðinh Sửu 1877, Phan Ðình Vận phó bảng khoa Mậu Thìn 1868 Tri huyện Xuân Trường bị giáng vì bị Pháp đánh chiếm phủ.
Nói chung dòng họ này rất phát đạt, nhiều người đỗ đạt làm quan có ý thức cứu dân yêu nước chống xâm lăng phát huy truyền thống tốt đẹp cho con cháu(c).