Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Thử Bàn về Việc Họ Thời Nay

Việc Họ là một thuần phong mỹ tục mang đậm đà bản sắc á Đông của chúng ta. Đây là một việc đã có từ lâu đời. Nhưng làm việc họ để làm gì ? và làm như thế nào trong thời nay ? Không dễ dàng trả lời đầy đủ cho câu hỏi giản đơn này. Nhưng trong sâu thẳm từ đáy lòng, những người có lương tri, ai cũng tha thiết. Đây cũng là một việc thuộc tâm linh.


Bàn thờ tổ chi hai, nơi đặt bài vị cụ Phan Văn Nhã
Các đồng chí lãnh đạo đứng đắn, dù chưa viết một cuốn sách nào hay công bố một bài viết nào về việc họ nhưng đều có tham gia Việc Họ : tìm về cội nguồn dòng họ mình, tham gia giỗ tổ, góp công, góp của vào xây dựng, tôn tạo từ đường, mồ mả ông cha, …



Ông Phan Văn Hòa trưởng chi hai chuẩn bị làm lễ
 Thờ cúng Tổ Tiên, gắn bó họ hàng, … vừa là nhu cầu có lợi ích thiết thực, vừa hợp lòng người đang sống trong thời đại ngày nay.

Họ hàng – tức là  gia tộc – chính là “cấp trên” - cấp mở rộng của gia đình - những người thân sống trong một ngôi nhà, cũng gọi là gia quyến. 
Nếu như Gia đình là “pháo đài bảo đảm an toàn cho mọi thành viên trước các cám dỗ, cạm bẫy của cuộc sống đầy nghịch lý hiện nay ((*) Phát biểu của một nhà giáo nữ trong Đai hội thi dua ở Tp Hồ Chí Minh.*)” thì Gia Tộc, từ tiểu chi đến đại tông,  chính là phòng tuyến, tầng tầng lớp lớp, để bảo vệ nền nếp gia phong, truyền thống dòng họ, thuần phong mỹ tục, truyền thống dân tộc, … của chúng ta.

Hiện nay cũng có nơi, có người mang những “nghịch lý trong cuộc sống”,  như :
“Thu nhập ngày một cao hơn mà nghĩa tình ngày một thấp đi !
Nhà cửa to đẹp hơn mà tính cách nhỏ nhen đi !
Thuốc men, chất bổ mạnh mà sức cơ bắp yếu đi !
Xe cộ, áo quần, tiên nghi ngày càng hoàn bị và tôt đẹp, mà không khí trong lành, nguồn nước tinh khiết, môi trường sinh thái ngày càng tồi tệ hơn ! …
Phải chăng Nhân loại đang thừa số lượng mà thiếu chất lượng ?  Văn minh vật chất đi lên mà văn minh tinh thần đi xuống ?((**)  Theo Ng: Thị Ngọc Hải, Tạp chí Thời trang trẻ số 127**)

Việc Họ cần hoàn toàn tự nguyện, không gò ép ; song có khuyến khích, nhất là cần khéo léo nhắc nhở, đôn đốc; chứ bỏ mặc sao được ! Nói chính xác là “tự nguyện chịu gò bó” chứ không thể “tự do vô tổ chức”.  
[Những người lính chúng tôi trong kháng chiến, nhất là hồi chống Pháp, rất khổ sở, thiếu thốn mọi bề, bị kỉ luật gò bó mà sao vẫn thấy “tự do, phấn khởi, hạnh phúc” thế !]

Thờ cúng Tổ tiên cốt ở lòng thành, không nhất thiết phải linh đình, mâm cao, cỗ đầy… Chỉ nén hương thơm, chén nước tinh khiết cũng được. Song cũng tuỳ tâm, tuỳ khả năng, không hạn chế. Trước là để bầy tỏ lòng thành kính với tổ tiên, sau là con cháu thụ lộc, chung vui.
Việc Họ nên bàn bạc thống nhất, “chín bỏ làm mười”. Giao cho ai chủ trì, thì theo người đó.  Nhất là những người cao tuổi, ai cũng có kinh nghiệm của mình. Nhiều khi phải khéo léo vận động trong “nhóm trung kiên” để có “tiền hô hậu ủng” khi đưa ra số đông. (Đây cũng chính là nghệ thuật lãnh đạo, một “nguyên lý” công tác Đảng). Nhưng đối với những việc hoàn toàn có hại thì phải chân thành góp ý ngay.



 Nguyên tắc của Việc Họ là phải Công tâm, Không suy bì.  Chọn người tốt, “chọn mặt gửi vàng”. Người được giao phải hết sức công tâm và thận trọng. Và cũng chớ để tình trạng “vì tích cực Việc Họ mà anh chị em bất hoà, vợ chồng, con cái phàn nàn” !

1, Về Tổ chức :

Xưa nay, trong cả nước, Việc Họ cũng chưa bao giờ thống nhất. Tùy dòng họ, tùy hoàn cảnh, tuỳ kinh nghiệm cụ thể của mỗi nơi.

Để góp phần “giữ gìn trong sáng tiếng Việt” có lẽ cũng không nên phân biệt thành hai khái niệm về Trưởng tộc và về Trưởng họ. Vì theo ngữ nghĩa, Trưởng tộc và Trưởng họ, chỉ là một. Nơi nào đã quen gọi là Trưởng họ thì cứ gọi là Trưởng họ, nơi nào quen gọi là Trưởng tộc thì vẫn cứ gọi là Trưởng tộc. Nơi nào đã quen bầu Trưởng tộc hoặc Trưởng họ thì có thể vẫn cứ bầu Trưởng Tộc hoặc Trưởng họ. Để điều hành Việc Họ cho có tính “dân chủ”, tốt nhất nên có hình thức cử ra Hội đồng Gia tộc (nếu còn tập trung đông ở quê hương). Hội đồng Gia tộc sẽ bầu Chủ tịch HĐGT hoặc Trưởng Lão. HĐGT có thể thành lập Ban Trị sự, v.v... Việc bầu Chủ tịch HĐGT, không nhất thiết phải cả họ tham gia bầu chọn, mà chỉ nên cử các “đại cử tri” đi bầu, hoặc chỉ hiệp thương đồng thuận, thì hay hơn.

Trưởng Tộc hoặc Trưởng họ, theo truyền thống ở miền Bắc, từ xa xưa, là người con trưởng của dòng trưởng. Nếu Bác đó có phẩm chất đạo đức tốt, có điều kiện, đủ khả năng và nhiệt tình tham gia Hội đồng Gia tộc thì càng hay. ý kiến của Trưởng Tộc (Trưởng họ), nếu đúng và hợp lý vẫn được ưu tiên, coi trọng.

Ở những dòng họ đã “công nghiệp”, đã “hiện đại”, thường không còn mấy người ở chính quê gốc, mà lan toả ngày càng nhiều ra khắp đất nước và trên cả thế giới nữa. Theo thiển ý của người viết bài này, thì hình thức Ban Liên lạc có lẽ  sẽ thích hợp lâu dài với cả mai sau. Vần nên mời cả Trưởng Tộc (Trưởng họ), theo định nghĩa cổ điển, tham gia Ban Liên lạc, nếu đủ điều kiện.

Ban Liên lạc điều hành việc họ có phần dân chủ hơn, chủ yếu là dựa vào vận động, đề cao tự giác, tự nguyện, khêu gợi tâm linh : nhớ đến Tổ Tiên, những người đã sinh thành ra mình ; nhớ đến quê hương, dù đã đi xa ngàn dậm, lâu đời…
2. Về Công việc Họ :

Việc trước hết là : Thờ cúng Tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và liên quan chặt chẽ tới nó là : Từ đường - nhà thờ (họ), gian thờ và mồ mả. Chính từ đường là nơi, là vật thể để nối kết họ hàng. Ngày giỗ là ngày họp họ hàng.

Ngày nay, thức thời thì nên tổ chức Giỗ, Lễ Hội vào Chủ nhật. ở Việt Bắc từ lâu bà con các dân tộc đã đổi phiên chợ, xưa theo ngày của lịch trăng (âm lịch) nay vào ngày chủ nhật. ở thành phố Hồ Chí Minh, tại các chùa, trước mỗi tháng cúng 2 ngày, theo mùng 1 (lịch trăng) và ngày rằm – nhiều người đi làm, đi học không đến được. Nay mỗi tháng cúng vào 4 chủ nhật, phật tử đến dự đầy đủ, đông vui hơn.

Chúng ta cũng nên Cúng giỗ vào Chủ nhật trước ngày húy kỵ chính, hay vào ngày chủ nhật liền sau đó. Nếu làm sau, thì hôm huý kỵ chính, chỉ cần các bô lão - đã nghỉ hưu - đến thắp hương khấn vái, như ngày tiên thường trước đây. Làm vào Chủ nhât thì con cháu (kể cả các quan khách) đang đi làm, nhất là các cháu đang đi học mới có điều kiện dự đông đủ. Việc Họ với lớp trẻ mới lớn lên này rất quan trọng. Con người ta sinh ra có tình thương của gia đình thì không thể trở thành kẻ độc ác. Trái lại, dù trí thức cao siêu, rất uyên bác, nhưng sống độc thân, không có bố mẹ, gia đình, gia tộc, thì rất dễ từ cô độc thành thâm độc, có khi lại trở thành kẻ cực kì nguy hiểm đó !

Từ đường và gian thờ, ngoài những kiến thức mà ông cha ta đã tích luỹ được và đã làm rất tốt : như khá cao, đủ xa, sâu thăm thẳm – gian nhà hình thức “chuôi vồ” ; màu sắc hợp lí (tôn vẻ cung kính, trân trọng) ánh sáng mờ ảo, “thiêng liêng”, tiếng chuông, tiếng trống như đưa lời khấn vọng lên cao xanh …- mà nhiều điểm, ngay nay chúng ta xây dựng hiện đại (nhưng thiếu hiểu biết) lại kém xa tác dụng, so với ông cha ta –  Ví dụ : Làm gác lửng cao, người lên lễ đứng sát (dính mũi vào bàn thờ). Tường quét màu trắng, trống trơ. Bàn thờ lại “nông” (không đủ xa). Không tạo được cảm giác “cao xa”, thành kính.

Cần tận dụng những kiến thức thông gió hiện đại (đối lưu) để khói hương được thu hút lên cao, vừa dễ thở cho người dự, vừa tạo cảm giác ông bà ta đang đón nhận những thứ ta dâng lên.

Cần chú ý đến dây chuyền hành lễ, để việc di chuyển của con cháu khỏi vấp váp. Nhiều sân từ đường có những bờ gạch thấp, lắm khi đi đông người, không nhìn xuống đất được, thường bị vấp. Nhiều gian thờ chỉ thích nghi khi lễ ít người. Khi có đám hiếu, đám hỉ, không có chỗ cho người chứng kiến. Ví dụ : Gian thờ thường ở trên tầng cao nhất, phía trước là cái sâu phơi. Bình thường đóng cửa, đủ cho số ít dự lễ và đủ trang nghiêm. Nhưng khi cần, vi dụ khi chú rể hay cô dâu lên lậy gia tiên, hay khi Nhà Sư lên làm lễ,… có thể mở tung bức tường trước (dạng các cửa đi lại ở cả mấy gian) để cho họ hàng chứng kiến chẳng hạn. Kiến trúc hiện đại gọi đây là kiểu “không gian vạn năng”.

Nghệ thuật thỉnh chuông khi khấn hay đánh chiêng trống kèm theo khi đọc chúc văn, cũng cần nghiên cứu “học tập ông cha ta” cho nhuần nhuyễn.
Việc tế lễ sao cho vẫn giữ được nét đẹp của ông cha, nhưng lại thích nghi với hiện đại. Chả nên ê-a, hương bái kéo dài, y sì ngày xưa. Nên chọn các thao tác mẫu mực, cô đọng, xúc tích lại cho hợp thời nay. Nhưng cũng chớ cụt lủn, ngắn quá, chưa đi vào được lòng người.

Việc quy tập mồ mả, lập nghĩa trang dòng họ, việc thanh minh tảo mộ cũng là những đề tài hấp dẫn, nối kết tình thân tộc, xin hẹn một dịp sau.
Biên soạn tộc phả,  gia phả, (tục biên tộc phả, tân biên phả tiểu chi) là một vấn đề lớn của Việc Họ. Chúng tôi đã có một tài liệu chuyên đề. Song trong việc họ nói chung cũng nên bàn đến. Tộc phả, gia phả thời nay là cầu nối kết dòng họ, là chỗ tôn vinh tổ tiên, là “uống nước nhớ nguồn”, đồng thời cũng là “Sổ liên lạc” của dòng họ, nên có địa chỉ, điện thoại, email, … của các thành viên






Chỉ đáng buồn là có nhiều vị thành đạt, đua nhau viết hồi kí, chỉ thấy “tôi”, mà chả có lời nào tới bố mẹ ông bà mình. Hình như các vị từ trên trời rơi xuống!. Ông bà ta trước khi về cõi vĩnh hằng với tổ tiên, nhiều người cũng muốn con cháu, hậu duệ sau này nhớ tới mình. Chỉ vì thời các cụ, nhiều khó khăn, chưa viết được. Gia phả là Hồi kí cho cả cha mẹ ông bà, tổ tiên – là một công việc báo hiếu đáng quan tâm.

Nhân tiện đây cũng xin “loạn” đàm một điều : Nhiều bậc cao tuổi nhận xét, cho là : Chứng minh thư nhân dân của chúng ta hiện nay thiếu mục tên cha mẹ là chưa đúng đắn. Việc này có nhiều ý nghĩa sâu xa. Có tên cha mẹ, nên mỗi việc làm của ta đều thấy phải có trách nhiệm hơn với gia tộc, có phải không nào ? 

Việc Họ còn rất nhiều việc cần bàn như :

- Công tác khuyến học, khuyến tài trong thời đại “kinh tế trí thức” ngày nay ;
- Dòng họ giúp nhau “xoá đói giảm nghèo” mà nhiều nơi ở Thái Bình đã cho kết quả rất tốt
Xin phép để lại một dịp khác sẽ bàn kĩ. Thành thật  xin thứ lỗi vì chưa kịp bàn dịp này.
ST.

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Tết Thanh minh và tục tảo mộ của người Việt

Với đạo lý uống nước nhớ nguồn, từ xa xưa Tết Thanh minh đã trở thành lễ hội quan trọng, thiêng liêng, đi sâu vào tiềm thức của biết bao người Việt Nam trong và ngoài nước.
Thanh minh tuy không phải là cái tết lớn, nhưng lại gắn liền với đạo đức, với bổn phận con người Việt Nam - bổn phận của con cháu tưởng nhớ công lao của tổ phụ, của những người đi trước. Đây chính là ngày giỗ tổ chung để mọi người có dịp báo hiếu, trả nghĩa, gọi là đền đáp phần nào ơn sinh thành tạo dựng của tổ tiên.
 Tết Thanh minh mang ý nghĩa cội nguồn, nhắc chúng ta không quên hướng về quê cha đất tổ. Người dân nhiều nơi kết hợp Tết Thanh minh với Tết Hàn thực, tức ngày bánh trôi bánh chay, được tổ chức vào ngày 3 tháng Ba âm lịch. Tuy nhiên, trên thực tế Tết Thanh minh đi theo quy luật vận hành của mặt trời - lịch dương, chứ không theo lịch mặt trăng - lịch âm, thường rơi vào ngày 4 hoặc ngày 5 của tháng Tư dương lịch.

Phong tục làm cỏ các phần mộ (lễ tảo mộ), sửa sang, thắp hương, đặt hoa quả thành kính tưởng nhớ ông bà tổ tiên là những hoạt động không thể thiếu trong ngày lễ quan trọng này.
Nguồn gốc tết Thanh minh
Tết Thanh minh được bắt nguồn từ Trung Quốc. Chuyện kể rằng, đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công, nước Tấn, gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở. Bấy giờ có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo vua giúp đỡ mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lòng cảm kích vô cùng.
Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, cùng nhau trải nếm bao nhiêu gian truân nguy hiểm. Về sau, Tấn Văn Công giành lại được ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công, nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái nghĩa vụ của mình, chứ không có công lao gì đáng nói. Vì vậy, ông về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn.
Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, rốt cục cả hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mồng 3.3 đến mồng 5.3 âm lịch hàng năm). Từ đó ngày mùng 3.3 âm lịch hằng năm được coi là ngày Tết Hàn thực, nhằm tưởng nhớ đến công ơn dưỡng dục của những người đã khuất.
Từ thời Lý nhân dân ta đã tiếp nhận tết Hàn thực nhưng ý nghĩa của ngày tết này đã biến đổi và mang đậm màu sắc truyền thống, phù hợp với tâm lý cũng như cuộc sống thường nhật của người dân nước Việt. Vào ngày tết Hàn thực, người Việt không kiêng lửa, mọi việc nấu nướng vẫn được thực hiện, chỉ có điều người Việt dùng bánh trôi - bánh chay cho tết Hàn thực với ý nghĩa tượng trưng đó là những thức ăn nguội - hàn thực. Vì vậy người Việt còn gọi tết Hàn thực bằng một tên gọi khác là tết bánh trôi - bánh chay.
Tục Tảo mộ
Đối với người Việt, tết Thanh minh còn là dịp để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn. Dù ai đi đâu, ở đâu đến ngày mùng 3.3 âm lịch cũng cố gắng về với gia đình để được đi tảo mộ, để cùng nhau ngồi bên mâm cơm sum họp gia đình. Những ngôi mộ được người nhà dọn dẹp sạch sẽ, vun đắp thêm đất mới, đó là những tâm đức của người đang sống đối với người đã khuất.
Theo thông lệ từ trước đến nay, cứ sau tháng Giêng là người ta đã lo việc đắp mộ cho những người quá cố. Trước Thanh minh một ngày, để đi cúng mộ người ta đã chuẩn bị một bộ tam sinh, giấy ngũ sắc, nhang, đèn, giấy tiền, vàng bạc, quần áo giấy... và các loại bánh trái, thức ăn, thức uống khác tùy sở thích của mỗi nhà. Bộ tam sinh dùng để tế trong các đại lễ ngày xưa là ba con vật: bò, heo, dê. Ngày nay tùy theo tập quán của mỗi địa phương và hoàn cảnh của mỗi gia đình để làm lễ.
Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Nhân ngày Thanh minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất. Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất.

Ông Phan Đức Thái chỉ đạo đặt lễ cúng thần linh tại nghĩa địa thôn Đào Xá



Con cháu dòng họ Phan Đình, hóa vàng tạ thần linh




Ông Phan Đức Thái chỉ đạo đặt lễ cúng thần linh tại nghĩa trang Phan Đình,
xứ Ma Cả



Ông Phan Đức Thái làm lễ tại mộ cụ bà Dương Thị Hai nhân tiết thanh minh





Ông Phan Đức Thái làm lễ tạ Thần linh tại xứ Ma Cả

















Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, săn sóc, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người có lòng nhân đức không khỏi mủi lòng thường cắm một nén hương, đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi tha ma mộ địa còn có lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am chúng sinh và mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng.
Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này (có thể sớm hơn một, hai ngày vì nhiều lý do khác nhau) để tảo mộ gia tiên và sum họp với gia đình.
Ngoài tục lệ trên, người Việt Nam còn có tục lệ làm bánh trôi, bánh chay thắp hương, sau đó cả gia đình quây quần bên nhau thưởng thức hương vị đậm đà của món bánh này.Tết Thanh minh nhắc chúng ta nhớ về quê hương, nguồn cội. Phảng phất trong bóng dáng mỗi con người là dấu ấn quê hương không dễ phai mờ theo năm tháng. Quê hương, nguồn cội chính là tài sản tinh thần vô giá đối với mỗi cá nhân chúng ta. Nếu không có điều kiện trở về quê hương trong dịp Thanh minh này, xin hãy hướng về nơi thiêng liêng ấy, bởi quê hương đi theo chúng ta suốt cuộc đời, in đậm dấu ấn trong từng nhân cách.
Theo Tạp chí Quê hương